CÀ PHÊ VÀ SÁCH

"Chẳng phải để trở thành nhà văn mà người ta phải viết. Viết là để lặng lẽ trở về với tình yêu thiếu vắng trong tất cả tình yêu” – C. Bobin

Archive for the tag “Trần Thùy Mai”

Dịu dàng như cỏ

waiting-deviantart
Nhà tôi ở trên lưng chừng đồi, từ cổng đến nhà thoai thoải con dốc nhỏ. Những bậc đá trắng viền cỏ xanh, lấm tấm hoa tím. Ở xứ này, hoa muguet tím nở bất cứ nơi nào có cỏ…
Thầy Rudolph rất thích cỏ. Mỗi lần tôi đàn, thầy cứ nhìn mông lung ra bãi cỏ xanh . “Hình như nhìn cỏ tôi nghe rõ tiếng đàn của em hơn”. Thầy bảo thế.
Khi gặp tôi lần đầu, thầy không nói dịu dàng như thế, mặt thầy đăm chiêu, nghiêm nghị. Nghe đồn thầy Rudolph S. nổi tiếng là khó tính. Thấy tôi vừa ngồi xuống chiếc ghế trước mặt , thầy bảo, với một nụ cười cao ngạo lướt rất nhanh sau hàng ria mép màu hạt dẻ:
– Algélique Stuttgart đã ngồi ở đấy.
Tôi tự nhiên thấy tủi thân. Tôi không muốn mình bị so sánh với bất cứ ai. Suýt chút nữa tôi đã xách đàn lên, ra khỏi phòng… Nhưng tôi không thể. Tôi đã ước ao được làm học trò ông bao lâu rồi. Algélique Stuttgart là học trò cũ của Rudolph, nay là cầm thủ nổi danh, lưu diễn khắp châu Âu. Danh tiếng của cô học trò đã làm danh tiếng của ông thầy thêm lừng lẫy. Biết bao nhiêu người muốn học với Rudolph, chắc gì hôm nay ông chịu nhận tôi.
Rudolph bảo tôi đàn thử.
– Thưa thầy, bài gì ạ.
– Bất cứ bài gì – Ông nói, mắt nhìn ra đám cỏ xanh.
Tôi đàn bài Carulli cung Mi trưởng.
Tay tôi run. Giống như hồi nhỏ, khi tôi mới tập đàn. Hồi đó… Mười ba tuổi, Tết xong, tôi đập con heo đất, dồn tất cả tiền lì xì trong đó để học ghita… Nhưng số tiền bé nhỏ chỉ đủ cho tôi học hết bài Carulli cung Mi trưởng. Suốt những năm tháng khó khăn sau đó, tôi vẫn đàn đi đàn lại bài tập ấy không biết chán . Ngày nhận lời cầu hôn của Cường , tôi giao hẹn: “Qua bên đó anh phải cho em đi học đàn”. Anh hứa. Năm này qua năm khác, anh quên. Không thể trách Cường , cuộc sống bận rộn quá. Cường không để cho tôi phải thiếu thứ gì dù là nhỏ nhặt nhất. Mười năm qua , hai vợ chồng đã có một trong những ngôi nhà đẹp nhất thành phố này. Phía sau nhà là ruộng nho mênh mông , những lúc buồn tôi lách qua cổng sau lang thang giữa những lùm nho chín.
Nhà càng rộng thì những khỏang trống càng mênh mông , nhất là những ngày dài Cường đi vắng. Năm ba mươi chín tuổi , tôi mắc bệnh chóang , có lần té êm ru trong vườn nho sau nhà , nằm lịm luôn vài giờ mới tỉnh
Khi bác sĩ biết rằng có những lần suốt tuần tôi không nói một lời với ai, ông khuyên Cường hãy tạo điều kiện cho tôi có một niềm vui . Lúc ấy, Cường nhớ lại lời hứa ngày hai đứa mới lấy nhau. “Anh xin lỗi – Anh bận quá!” Cường thật tình hối hận. Còn tôi chẳng bao giờ trách được anh.
Buổi học đầu tiên , mặt thầy Rudolph cứ cau lại , chăm chú nghe từng tiếng đàn vụng về. Bỗng Rudolph cầm lấy tay tôi. Phản ứng đầu tiên của tôi là khẽ rụt lại, nhưng rồi lại để yên. Tôi hiểu: tay kia ông ta cầm một cái dũa. Ông bắt đầu dũa móng hai ngón trỏ và ngón giữa. “Phải tạo móng tay theo một form riêng, có chiều dài độ 2 – 3mm thì âm thanh mới trong và vang được”. Rudolph bảo, mặt vẫn đăm chiêu. Cảm giác một người đàn ông lạ nắm lấy tay mình làm những ngón tay tôi tự nhiên cứng lại. Rudolph bỗng nói :
– Algélique Stuttgart không có bàn tay đẹp như thế này, nhưng những ngón tay cô ấy mềm dẻo và bén nhạy đến kỳ lạ.
Tôi bất giác đỏ mặt. Tôi biết từ giờ phút này, tôi sẽ thành nạn nhân của Rudolph, ông sẽ tra tấn tôi mãi mãi với cái điệp khúc về cô học trò cũ lừng danh. Bỗng nhiên, giữa lúc hết sức phật lòng, một tình cảm kỳ lạ chợt nổi lên thật mạnh mẽ: Tôi nhất định phải vượt qua Stuttgart, phải thay thế Stuttgart trong tâm tưởng ông thầy!
Ở trường, mỗi lần học, Rudolph chỉ dạy tôi 40 phút. Về nhà, tôi tập mỗi ngày 4 giờ. Thời gian đầu, mấy ngón tay tôi sưng vù, đau đớn. Cường kêu:
– Anh cho em tập là để em khỏe, không phải để liệt giường đâu nhé.
Tôi cười. Tay đau nhưng mặt rất tươi ! Từ khi trở lại với cây đàn , tôi biết cái cảm giác khi người ta có một niềm say mê. Đấy là tâm trạng hưng phấn của một người đang đi tới, không phải là ấn tượng quẩn quanh buồn tẻ của đời người.
Về sau tôi đã biết nhiều hơn về Algélique Stuttgart. Tôi biết rằng thầy Rudolph đã yêu cô ấy, khi Algélique còn ngồi trên chiếc ghế mỗi buổi học tôi vẫn ngồi. Một lần cùng Cường đến thăm nhà thầy , tôi thấy ảnh của Algélique, hồi ấy khuôn mặt còn ngây thơ nhưng một ý chí mạnh mẽ đã lộ rõ nơi ánh mắt và đôi lông mày đen nhánh. Tài năng của cô ta ngày càng lớn lên, cho đến khi cô vượt xa thầy, rồi cô rời lớp học ra đi, nhưng dấu ấn của cô để lại trong Rudolph thì còn mãi, như một ám ảnh. Các học trò của Rudolph ngưỡng mộ thầy , còn thầy thì lại ngưỡng mộ Algélique.
Từ đó khuôn mặt của Algélique luôn hiện ra trước mắt tôi – Tất nhiên giờ đây cô ấy không còn thơ ngây như trong bức ảnh, giờ đây ít nhất Algélique cũng đã xấp xỉ tuổi tôi bây giờ: ba mươi chín tuổi, cái tuổi mùa thu chín ửng của nhan sắc. Khi cô đã thành danh thì tôi vẫn còn phải nắn nót từng nốt nhạc, khả năng đuổi kịp Algélique thật là xa vời. Thật ra, lần đầu bị Rudolph tra tấn với cái tên Algélique, tim tôi tràn ngập nỗi hiếu thắng đàn bà muốn xóa nhòa cô ta ; nhưng sau một năm học, cảm giác tị hiềm con nít kia đã biến mất . Hình như đó chính là hiệu quả của âm nhạc: món quà mà Rudolph đem đến cho tôi trong trẻo quá, một điều gì đó lấp lánh như pha lê, khi đã thấm sâu vào tâm hồn sẽ khiến ta chỉ biết cho đi chứ không muốn chiếm cứ và tranh đọat bao giờ. Khi ngồi đàn, phong thái Rudolph thật trầm tĩnh , thật đẹp ; khi đó, ông không bị Algélique ám ảnh, và tôi cũng vậy.
Hôm nay, Rudolph dạy tôi một đọan trong bài Praludium của Bach ….Ong bảo tôi :bản này rất trừu tượng , khi đánh chỉ nghĩ đến âm thanh thôi . Vậy mà sao tôi cứ tưởng tượng ra tiếng chim hót nơi lùm cây hiên sau nhà… Nắng thì cứ trong ngần trên cây cỏ… Tôi nhắm mắt, tưởng mình vừa thức dậy sớm mai, tưởng đang ở trong ấm áp của gối chăn … Khi Rudolph đàn xong tôi nói cảm giác của mình, thầy chỉ cười: “Em đúng là rất nhạy cảm!”
Hình như đó là lần thứ nhất thầy mỉm cười, sau hơn một năm dạy tôi học. Hôm nay thầy không nhắc đến Algélique…
“Rudolph… Em tặng thầy nhân ngày 20 tháng 11…” “Cái gì?” Rudolph ngạc nhiên. “Dạ, 20 tháng 11, đó là ngày thầy giáo Việt Nam”. Rudolph nhìn tôi ngẩn người, rồi khi nghe đến mấy tiếng “ngày thầy giáo Việt Nam” ông vội đứng dậy, nghiêng mình tỏ vẻ nghiêm cẩn. Tôi đặt vào tay ông cái hũ mứt nho xinh xắn – tôi đã hái nho còn sót lại trong ruộng nho sau nhà, những trái sót lại đó bao giờ cũng ngọt và thơm đến nỗi đêm nằm nghe gió thỏang từ vườn sau tôi không sao ngủ được. “Tự tay em làm đấy. Khi thầy ăn, thầy sẽ thấy khác hẳn những hộp mứt ngoài siêu thị”. Rudolph nhìn tôi… Ngạc nhiên, cảm động… và bật cười. Đó là lần thứ hai tôi thấy nụ cười trên khuôn mặt ông.
Từ khi thành danh Algélique chưa hề về thăm thầy. Tôi không hiểu Rudolph nghĩ gì về chuyện đó. Hai chữ bận rộn lúc nào cũng choáng ngợp trong cuộc đời những con người ở châu Âu này, càng tài giỏi, danh tiếng lại càng bận rộn, cho nên câu chuyện Đại tướng Arnot về thăm thầy cũ nơi cái làng bé nhỏ xa xưa tuy là tác phẩm của người Âu châu , nhưng giờ đây chính họ cũng chẳng còn nhớ nữa. Tôi nhủ thầm: Thầy Rudolph thật đáng quý mến, giá mà tôi nổi tiếng như Algélique, năm nào tôi cũng sẽ đến thăm thầy, sẽ đem cho thầy những hũ mứt ngon như thế này.
  ***
Cuối tháng, Cường đem cho tôi một niềm vui bất ngờ.
– Hai mươi tháng 9 này, sứ quán tổ chức một đêm văn nghệ kỷ niệm hai mươi năm quan hệ ngoại giao tốt đẹp. Người ta mời em hát… Anh nghĩ là em sẽ thích…
Thọat đầu tôi hơi ngần ngừ. Tôi nghĩ thầm , người ta mời mình vì biết đến chút tài mọn của mình , hay chỉ vì tôi là vợ của Cường , một người có thế lực trong giới Việt kiều ở đây? Tôi hỏi ý Rudolph , thầy bảo :
-Biểu diễn lần đầu ở một đêm tiếp tân ngọai giao , một cơ hội không dễ có …Algelique trước đây đã khởi đầu sự nghiệp từ một quán trà nhỏ xíu ở ngọai ô !
Một lời của thầy đã thay đổi hẳn suy nghĩ của tôi.
-Vâng , nếu em hát , em muốn nhờ thầy…
Tôi hơi run. Xưa nay thầy chỉ soạn hòa âm và phối khí cho những ca sĩ nổi tiếng. Những người đáng được ngưỡng mộ. Còn tôi? Chỉ là một con chim mới ra ràng. Không ngờ thầy cười rất mộc mạc :”Nếu tôi giúp em, em sẽ cho lại tôi gì nào? Thêm một hũ mứt nho nữa nhé!” Tôi reo lên vì vui sướng, tôi sẵn sàng hái hết tất cả nho còn sót lại trong ruộng nho sau nhà để làm mứt, nếu ông muốn…
Tôi chọn bài Bèo dạt mây trôi và một ca khúc sọan theo nhạc của Napoleon Coste , một bài Baccarolle nhịp 3/8 . Khi tập đàn bài này ,tôi thường bị thầy nhắc nhở :”Đánh nhanh nhanh và mạnh mẽ hơn một chút , vì đây là chèo thuyền gondola trên sông Venice chứ không phải là mấy cô gái Huế chèo thuyền trên sông Hương đâu nhé !”. Bây giờ phải hát , tôi đã cố gắng nhưng vẫn thấy thiếu một chút gì đó … Hai thầy trò tập trong nửa tháng trời… Tôi hỏi Rudolph:
– Hôm ấy thầy tới với em cho em vững tâm hơn ,thầy nhé ?”
Rudolph nhìn tôi với vẻ trách cứ :
_Học trò tôi chưa ai phải yêu cầu tôi như vậy bao giờ. Một người khi bước lên bục diễn phải biết tin ở chính mình .
Tôi im lặng, hơi buồn. Tôi biết nếu mình vấp ngã trên bục diễn thì thầy cũng chẳng thể nào cứu được . Nhưng ai ngoài Rudolph có thể chia sẻ với tôi niềm vui được hát?
Gần đến đêm hội diễn, hai thầy trò đang ngồi dượt lại bài Bèo dạt mây trôi thì một người đàn bà trẻ bước vào, trong chiếc áo lông.
“Algélique Stuttgart!” Rudolph kêu lên, như bị chớp giật. Algélique cười, ôm lấy Rudolph mà hôn chụt vào má, rồi quay qua ôm tôi. “Rudolph! Đêm hai mươi tháng chín em sẽ diễn tại Nhà hát lớn thành phố. Em sẽ gửi giấy mời cho thầy !”
Rudolph đứng ngây người nhìn cô học trò cũ, nỗi sung sướng làm ông bàng hoàng. Algélique nhắc lại: “Thầy đến nhé?” đến mấy lần, ông mới nhớ đến trả lời:
– Được Algélique Stuttgart mời là một vinh dự lớn.
Algélique cười vang. Tiếng cười phóng khoáng, tự tin của một người đàn bà thành đạt.
Và thế là đêm hai mươi tháng chín, tôi sẽ hát ở sứ quán , không có Rudolph.
Cường lái xe đưa tôi đến, anh nhận thấy rõ vẻ bất an của tôi. “Nếu em thấy ngại quá, anh có thể nói với ban tổ chức…” “Không sao . Em làm được!” Tôi vừa bước ra khỏi xe vừa bảo Cường.
“Vâng, em sẽ làm được, tôi biết mà”. Rudolph đến bên tôi. Tôi giật mình. Ông đang từ trên thềm bước xuống, trong bộ lễ phục đen .
Rudolph nghĩ sao mà lại bỏ qua lời mời của Algélique Stuttgart ? Rút từ trong túi một ngọn lá, Rudolph đưa cho tôi:
– Em ăn ngọn lá này vào, giọng sẽ thanh hơn!
Tôi ngửa tay ra, nhưng ông chỉ ngắt cho tôi một nửa, một nửa bỏ lại vào túi áo. Chiếc lá lấp ló trên túi áo smoking quá nhỏ, tôi đưa tay sửa lại cho ông… “Nửa chiếc lá này là phần tôi. Tôi sẽ hát với em bài Baccarolle !”.
Tôi nghẹn không nói gì được . Cường vừa cất xong xe, lên thềm, đứng cạnh tôi, anh cảm ơn Rudolph và lấy khăn tay chặm mắt tôi. “Đừng khóc chứ, chì kẻ mắt sẽ trôi mất”.
Tôi bước ra dưới ánh đèn. Dưới kia là chồng tôi, bạn bè tôi, những người thân thương của tôi ở thành phố này. Tôi hát chưa bao giờ say như thế… Rudolph đệm đàn , tiếng đàn của Rudolph như nâng đỡ, chở che tiếng hát tôi. Bèo dat mây trôi, bài hát về nỗi niềm ly biệt mà bất cứ người Việt xa quê nào cũng đã trải qua, ít nhất một lần trong đời! Khi Rudolph cùng tôi hát xong bài Baccarolle , mọi người ùa đến cụng ly, có người xúc động: “Un très beau Duo!” (Một đôi quá đẹp!).
Qua những giọt nước mắt long lanh, tôi thấy Cường đến cụng ly với Rudolph. Khi đó quá vui sướng nên tôi chẳng kịp nghĩ tại sao Cường lại có thể lịch sự và điềm tĩnh đến thế. “Em không ngờ thầy Rudolph có thể hy sinh cho em như vậy”. Tôi nói với Cường, ngực vẫn còn phập phồng xúc động. Cường chăm chú lái xe, khẽ mỉm cười:
– Không phải là hy sinh… Chỉ là một sự chọn lựa.
– Nhưng em chẳng phải là cái gì, so với Algélique.
Cường cho xe rẽ qua khúc quanh. Anh nói, mắt vẫn nhìn trước mặt:
– Em cứ tưởng thế thôi. Tài năng và danh vọng có thể làm người ta ngưỡng mộ, nhưng sự chân thành mới làm người ta thương yêu và xúc động.
Tôi ngạc nhiên nhìn Cường, suy nghĩ xem anh muốn nói gì. “Em? Ý anh muốn nói em rất chân thành với Rudolph?”
– Em luôn chân thành với bất cứ ai – Cường nói, anh quàng một tay qua vai tôi. Xe lướt qua một quãng đường nhiều cây xanh, có một loài hoa nào đó đang tỏa hương thoang thoảng trong đêm tối.
  ***
Tôi làm rất nhiều mứt nho, trữ thật nhiều dâu tây trong tủ lạnh… Chủ nhật, có thời gian ở nhà, Cường mới nhìn thấy gia tài mứt và hoa quả của tôi. Anh kêu: “Em làm gì thế, định mở cửa hàng bán của ngọt à?” Khi tôi nhắc anh, chủ nhật tuần sau là lễ kỷ niệm thành hôn của hai đứa, anh áy náy vì quả thật bận quá, đã quên khuấy đi. Xoa nhẹ vào lưng tôi, Cường nói như chuộc lỗi:
– Mình sẽ tổ chức ngày kỷ niệm lần này thật linh đình.
Tôi nấu rất nhiều món ăn. Nhìn những thứ mình đã chuẩn bị đang nằm trên bệ bếp, tôi ngạc nhiên thấy món mứt màu đỏ tím cứ nổi bật lên trong những chiếc hũ thủy tinh xinh xắn. Sao chúng đẹp và hấp dẫn đến thế, có phải là tôi đã dành cho chúng nhiều âu yếm nhất trong khi chế biến?
Rudolph đến muộn nhất trong hơn hai mươi khách mời. Bao giờ ông cũng đi một mình, rất cô đơn, như đa số những người châu Âu… Ông đem đến tặng Cường và tôi hai bông hồng đỏ. Tôi chưa bao giờ thấy hai bông hồng nào lớn và tươi thắm như thế, cuống hoa dài đến hơn một mét.
Tôi cầm hai bông hoa, lòng lâng lâng vui. “Hôm nay, thầy lại hát với em bài Baccarolle thầy nhé?” Rudolph thoáng mỉm cười:
– Ô, hôm nay thì không, em ạ!
Tôi sực nhớ ra. Hôm nay tôi phải đứng cạnh Cường, trong khi anh đọc thơ tặng bạn bè. Anh đã bảo tôi anh sẽ đọc một bài thơ của Kalih Gibran. Khi nghe anh nói bỗng tôi choáng, kêu lên:
– Đừng! Đừng đọc thơ Gibran, anh!
Tôi nhớ ngày trước đã có lần đọc được một tập thơ của Gibran, nhan đề là Uyên ương gãy cánh.
Tôi sợ cái tên Gibran sẽ là điềm không may trong ngày kỷ niệm này. Nhưng Cường phì cười bảo tôi , Gibran không phải chỉ có một bài thơ đó , hôm nay cũng là Gibran nhưng là một bài thơ về hạnh phúc. Tôi đứng cạnh Cường, anh ôm tôi một tay, tay kia cầm cốc rượu; bài thơ quả là hay, khi Cường đọc xong ai nấy lặng đi với ánh mắt tán thưởng.
Quay lại, tôi thấy Rudolph đang nhìn . Một cái nhìn kiên khổ và chịu đựng vô bờ bến. Tôi rùng mình, nhớ lại cảm giác khi mới vào học, ngày ngày phải chịu tra tấn với cái tên Algélique Stuttgart. Chắc khi ấy ánh mắt tôi cũng chỉ chịu đựng bằng một phần ngàn ánh mắt ông bây giờ.
Tiệc tàn. Trên hành lang, ông đi lướt qua tôi. Tôi muốn nói gì đó với ông, nhưng không hiểu sao tôi run, không thể.
Có một giới hạn gì đó, mà tôi đã vượt qua và giờ đây, tôi hoảng hốt tìm cách quay về.
  ***
Suốt đêm tôi trăn trở không nhắm mắt được. Ánh mắt của Rudolph cứ hiện ra, thật trớ trêu, tôi thấy mình có lỗi, đêm nay là đêm kỷ niệm thành hôn giữa tôi và Cường, lẽ ra tôi không nên nghĩ đến ai ngoài anh. Nhưng ánh mắt Rudolph là một ám ảnh, không phải tôi muốn nghĩ đến nó, nó tự ý đi vào trong tâm thức tôi, mạnh mẽ, không thể xua đi được, nó làm lòng tôi thấy xót, thần kinh tôi không thể nào dịu xuống . Cường vuốt ve tôi, cơ thể anh trùm lên tôi như muốn sưởi ấm. Tôi bất động, lẽ ra bổn phận tôi là phải phối hợp nhịp nhàng âu yếm với anh lúc này, nhưng tôi không thể.
Cường nhận biết , anh buông tôi ra, nhẹ nhàng:
– Suốt ngày em lo lắng cho bữa tiệc, em mệt rồi.
Tôi bật khóc. “Em xin lỗi”. Cường thóang thở dài: “Em không có lỗi gì cả”. Tôi cảm thấy biết ơn anh. Tôi cố nằm im cho anh ngủ. Mãi đến gần sáng tôi mới thiếp đi, giấc ngủ mệt mỏi đầy mộng mị. Khi tôi tỉnh dậy, Cường đã đi làm, anh tự lo buổi ăn sáng. Tôi áy náy, không biết anh có ăn đủ suất ăn thường ngày không?
  ***
Rudolph mà tôi gặp ở lớp học hai hôm sau đó là một Rudolph khác, với vẻ mặt đăm chiêu lầm lì còn hơn thời tôi mới vào học. Tuy vậy khi tôi bước vào, một vẻ sáng ngời chợt lướt qua, và chắc tôi cũng thế, lòng tôi nhẹ đi, lâng lâng khi bước vào phòng tập. Dự định của tôi là làm một CD, tôi hát và Rudolph đàn, CD này sẽ là quà Giáng sinh dành cho bạn bè nên hai thầy trò phải ráo riết tập và thu. Rudolph hỏi tôi sao buổi học trước vắng mặt. Tôi nói tôi lại bị chóang, té êm ru trong phòng khách hơn một giờ mới tỉnh.
Ngày trước vì ngất lịm trong ruộng nho mà bác sĩ khuyên tôi nên đi học. Còn bây giờ?… Rudolph nhìn tôi, vẻ mặt ông lo lắng quá làm tôi nao lòng. “Thầy ơi, em không sao đâu, em phải làm xong CD này đã rồi có chết thì mới chết”. Rudolph nhìn tôi:
– Vậy tôi sẽ làm thêm CD nữa cho em… Và làm thêm nữa, thêm nữa , để em không kịp chết.
Tôi hát bài Nguyệt cầm của Cung Tiến, lời bài hát đã dịch ra tiếng Anh cho Rudolph hiểu. Tôi muốn dắt Rudolph vào thế giới phương Đông của tôi… Bài hát lên cao, cao chót vót, tôi lạc giọng. “Thầy ơi, hát tông C thôi, tông C hợp giọng em hơn”. Rudolph lắc lầu:
– Hát tông E hay hơn, đàn theo cũng phóng khoáng hơn.
– Không mà… tôi nằn nì. Thấy tôi rơm rớm nước mắt , Rudolph đành nhượng bộ:
– Được rồi, được rồi, mình hát tông C nha!
Rudolph đưa bàn tay xoa nhẹ trên tóc tôi như thể vò đầu một đứa trẻ. Mở cặp, Rudolph lại đưa cho tôi một chiếc lá – chiếc lá thanh giọng đã góp phần giúp tôi thành công trong đêm biểu diễn ở Sứ quán. “Thầy ơi, đây là lá gì?”. “Đấy là lá sauge, chỉ có ở xứ này mà thôi . Em à , sau này khi tôi không còn ở gần em nữa , em hãy nhớ là phải nâng giọng mình lên , đừng bắt bài hát phải khom mình xuống em nhé.” “.
Sauge, nghĩa là từ bi. Ôi tên lá hay quá! Tôi nhớ tới lời hát của Trịnh Công Sơn “Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”. Làm sao tôi dịch nổi trọn vẹn câu hát để chia sẻ với Rudolph? Cầm ngọn lá trong tay, tôi hỏi thầy:
– Thầy ơi, thầy cho em nhiều quá, biết lấy gì trả ơn thầy đây?
Rudolph cười:
– Cho em mắc nợ đó.
Tôi đặt nắm lá vào túi áo trước ngực. Nơi ấm nhất của lồng ngực tôi… Thầy đã cho tôi nhiều quá, âm nhạc, thành tựu, niềm vui trong cuộc sống! Tôi ngập ngừng nói với thầy, người Việt Nam tin rằng người ta có nhiều kiếp, có những món nợ lớn quá không trả được trong kiếp này thì sẽ phải trả ở kiếp sau.
-Người phương Tây chúng tôi lại không tin có kiếp sau… Sao lại không thể sống trọn đời mình ở kiếp này?
Rudolph hỏi và cúi xuống bên tôi, cúi xuống rất gần đến nỗi tôi cảm thấy hơi thở của ông trên má mình.
Tôi run, cúi gằm mặt xuống, chân tôi cũng run cầm cập, gót giày rung nhẹ lác cách trên sàn. Tôi biết trái tim tôi mỏng manh và dễ vỡ lắm. Tôi biết mình phải đóng hộp nó lại. “Vì người phương Đông tin rằng cái gì đầy quá thì sẽ vơi, thầy ạ!” Tim tôi đập muốn vỡ lồng ngực, nhưng Rudolph đã như chợt tỉnh , ngẩng lên, đi vòng về phía bên kia, ngồi vào chiếc ghế của thầy.
Thầy là một thầy giáo mẫu mực, tôi biết mà. Bỗng nhiên tôi thấy mình càng quý, càng thương thầy nhiều hơn! Bỗng tôi la lên, máu dồn hết về tim: Rudolph cầm đàn, mặt đanh lại, đấm mạnh và tim đàn. Những sợi dây đứt phựt tung lên một hợp âm thất thanh.
Mặt tôi không còn một giọt máu. Rudolph vốn là người điềm tĩnh. Ngay lúc này ông cũng điềm tĩnh, cầm lấy áo khoác, đi thẳng xuống thềm.
Tôi cầm lấy cây đàn. Cây đàn bị thương nằm trong tay tôi, dường như vẫn còn rung những nốt trầm đau đớn .
  ***
Tôi ngồi lặng một lúc lâu . Lúc xuống thềm tôi thấy Cường đậu xe trước lớp .
“Sao anh đi làm về sớm thế?” Tôi ngạc nhiên.
Cường ôn tồn:
-Rudolph điện cho anh đến đón em…Ông ấy bảo đã xin chuyển sang dạy ở Paris , phải đi gấp nên không kịp báo là không thể dạy tiếp cho em được.
Vẻ mặt Cường thật khó tả .Thấy vẻ mặt thất thần của tôi , dù không nói ra chắc anh cũng đóan được ít nhiều rồi. Cường với tay cài dây an toàn cho tôi. Không giữ mình được, tôi òa khóc . Tôi biết, từ đây không bao giờ được sống giờ phút thần tiên với những bản đàn của Bach nữa.
Cường cho xe chạy theo hướng về nhà, anh nhẹ nhàng bảo:
– Nín đi em. Chuyện gì rồi cũng sẽ qua… Thầy Rudolph là người tốt, thầy sẽ nhớ vợ chồng mình rất nhiều.
Qua những con đường quanh co, xe chúng tôi đã về đến nhà. Ngôi nhà nho nhỏ đầy hoa tím…
Với rất nhiều cỏ trên dốc đồi xanh.

 

(Trần Thùy Mai)

Mưa ở Strasbourg

ly-hon-161013-49a45

Tôi sang Pháp với Miên và ông Tú. Tham dự một chương trình giao lưu văn hóa trong vòng mười ngày, đối với tôi chẳng có gì quan trọng, ông Tú cũng vậy. Tới ngày đi, quơ vội mấy bộ quần áo bỏ vào vali là xong.

Cả hai chúng tôi đều đi nước ngoài đã nhiều lần. Nhưng với Miên là lần đầu, mới được một giải thưởng diễn viên xuất sắc nên được chọn đi. Cô hào hứng, hồi hộp, cứ vài hôm lại điện cho tôi, hỏi xem nên đem cái gì, khí hậu bên đó ra sao. Gọi nhiều đến nỗi tôi phát bực. Được cái may, cô có giọng nói thật dễ thương, không thì tôi đến chết vì stress.

Ông Tú hoàn toàn không nói được tiếng Pháp, còn tiếng Anh thì chỉ biết “very good” và “number one”. Miên có chịu khó học nói năm ba câu bập bẹ nhưng nghe thì chưa rèn luyện gì cả nên xem như điếc đặc. Tôi phải gánh trách nhiệm làm tai nghe miệng nói cho cả đoàn. Ông Tú là trưởng đoàn, tôi tất nhiên phải lo phục vụ ông rồi; còn Miên biết thân phận mình nên lo o bế tôi rất sớm. “Qua đó có gì khó khăn là Miên nhờ anh đó nghe!”.

Biết tôi ghiền thuốc lá nên Miên ưu ái tặng tôi luôn hai tút “con mèo”. Ai đã đi nước ngoài đều biết mấy thứ này đắt hơn hẳn trong nước và chưa chắc kiếm được thứ mình thường dùng, hay hơn hết là đem theo cho chắc. Tôi cảm động, món quà rất đúng ý, người tặng quà lại nhỏ nhẹ dễ thương. Tôi cố giữ vẻ mặt lầm lì (từ ngày vào nghề đạo diễn, tôi đã tập cho được cái vẻ hắc ám nặng nề này để các cô nàng diễn viên phải sợ mà nghe lời răm rắp). Cầm hai tút thuốc, lòng âm thầm rung động nhưng tôi vẫn lạnh lùng, buông hai tiếng cụt lủn: “Bày đặt!”.

Sân bay Charles de Gaulle đông nghịt người, cứ như một mê cung, hết đường rẽ này lại lối ngoặt kia. Ông Tú đủng đỉnh mặc tôi xoay mọi việc, còn Miên thì cứ bíu lấy tôi, tay và vai đầy những hành lý. Cái vali của nàng to thế, lại thêm hai cái túi du lịch khổng lồ. Tôi mặc kệ, tảng lờ. Mấy cô gái trẻ này lúc nào cũng tính chuyện nhờ vả người này người kia nên cứ đóng hành lý vô tư, chẳng cần đếm xỉa đến qui định của sân bay mà cũng chẳng màng nghĩ xem mình có đủ sức mang vác không. Tôi nhủ thầm thế nào mình chẳng phải đỡ Miên một tay, nhưng trước hết hãy cứ để mặc nàng xoay xở cho biết thân một lúc cái đã.

Miên cũng biết thân thật nên không dám kêu ca, cứ một tay kéo cái vali và cái túi, tay kia mang một túi kếch sù khác, trông vẻ mặt cam chịu đến cả đá nhìn thấy cũng mủi lòng. Ông Tú hết nhìn Miên ái ngại lại nhìn tôi, ý muốn tôi giúp nàng nhưng ngần ngừ không dám mở miệng. Tôi đang định qua khỏi khúc quanh này sẽ ra tay nghĩa hiệp thì bỗng một người đàn ông tóc nâu xuất hiện.

“Tôi là Claude Vallons, chào các bạn”. Vừa dứt câu chào anh ta liền ôm hôn thắm thiết hết ông Tú đến tôi, rồi đến Miên, Miên vội vã thụt lùi tránh cái ôm hôn của ông Tây. Claude nhớ ra, vội bảo: “Xin lỗi”, rồi nhanh nhẹn cúi xuống hai tay đỡ lấy cả hai cái túi Miên đang vác nặng. Miên mừng quá, ấp úng nói: “Merci”.

Tôi hơi ngượng, vội đưa tay kia ra cầm luôn cái vali Miên đang kéo. Miên tung tẩy hai tay đi tung tăng, vừa đi vừa nói như có ý cho tôi nghe: “Ông Tây này tử tế quá!”. Hơi chột dạ, nhưng để tạo không khí cởi mở bước đầu, tôi nhanh nhẩu dịch ngay câu nói của Miên cho Claude Vallons nghe. Claude hai vai khoác hai cái túi nhẹ nhàng như không, nghe tôi nói liền quay lại cười. Miên lúng túng đỏ mặt, lần đầu tiên tôi thấy nàng thật dễ thương.

Sau một giờ trên chuyến bay nội địa, Vallons đưa chúng tôi đến Strasbourg. Một thành phố đẹp tuyệt với những con đường xinh xắn và những trụ đèn viền đầy hoa leo. Bữa ăn đầu tiên, Claude hỏi tôi muốn đến quán Việt Nam hay quán ăn Pháp. Miên láu táu:

– Sang đây thì ăn thử đồ Tây cho biết chứ thức ăn Việt Nam thì muốn ăn lúc nào chẳng được.

Tôi vừa dịch vừa biên tập câu của Miên: “Cô Miên đây ngỏ ý muốn thưởng thức những món ăn độc đáo và tìm hiểu văn hóa ẩm thực của người Pháp”. Khuôn mặt tươi vui của người đang tiếp khách phương xa càng tươi thêm, lập tức Claude đưa chúng tôi đến nhà hàng Cheval Blanc – tuy tên là nhà hàng Ngựa Trắng nhưng bốn phía vách lại trang trí đầy những hình vịt bay, dấu hiệu đặc trưng của thiên nhiên vùng Alsace. Chiều hôm đó, sau cuộc đi thăm Bảo tàng Strasbourg, Miên nhăn nhó bảo tôi:

– Lúc trưa em sai lầm quá. Không ngờ đồ ăn Tây khó ăn đến thế. Em ăn chẳng được mấy miếng, bây giờ đói lả người.

Ông Tú nghe vậy gật gù góp thêm:

– Mình cũng vậy, nhất là lúc anh chàng Claude giới thiệu các món phó mát đặc biệt quý hiếm làm bằng sữa dê núi, mình không tài nào nuốt được.

Tôi cười khinh khỉnh:

– Bởi vậy đừng có láu táu, muốn ăn gì, mua gì thì hỏi tôi đây này. Đã dặn rồi mà lại…

Miên cười như biết lỗi:

– Em quên! Mà thôi tối nay đừng ra ăn quán nữa, để em lo…

Miên đem theo trong vali cả một túi gạo mười cân, cả nồi cơm điện, cả ruốc, nước mắm, chà bông, tôm rim ngọt. Phút chốc phòng Miên trở thành phòng ăn cho cả đoàn. Ông Tú được bữa cơm hợp khẩu vị, hớn hở ra mặt. Miên bô bô: “Đấy, dân mít nhà ta, không có nước mắm và bột ngọt thì dù cao lương mỹ vị cũng không nuốt nổi, phải không anh?”.

Tôi làm mặt nghiêm nhưng rồi cũng phải gật gù tán thưởng vì Miên nấu ăn ngon thật. Ông Tú bảo nhỏ tôi: “Này, cậu vẫn còn độc thân phải không? Cô bé này hay đấy, cứ tưởng chỉ biết văn nghệ văn gừng, không ngờ đảm đang nhanh nhẹn thế!”.

Người ta bảo đường vào trái tim người đàn ông phải thông qua dạ dày, quả đúng thật. Bữa cơm ngon làm tôi quên gần hết những ấn tượng bực bội khi phải vừa dịch vừa biên tập những câu nói quê mùa của nàng.

° ° °
Claude đến đón Miên rất sớm, từ trước tám giờ là giờ mà ở đây người ta mới lò mò xuống phòng ăn để điểm tâm. Miên mặt tái lét chạy qua gõ cửa phòng tôi:

– Anh đi với em, chứ em biết gì mà nói năng.

– Có cần nói năng gì đâu, hôm nay vì em phải diễn cho nên Claude đưa em tới nhà hát trước để chuẩn bị mà. Anh đi thì bỏ ông Tú cho ai.

– Anh thì chỉ lo cho sếp thôi, không quan tâm tới phụ nữ… – Miên ấm ức – Đi một mình với ông Tây em sợ lắm.

– Ông ấy không ăn thịt em thì thôi, sợ cái gì?

Miên năn nỉ quá, rồi tôi cũng mềm lòng đi với nàng, thật là mệt vì thế có nghĩa là đưa Miên đến nơi xong lại phải hộc tốc quay về để tháp tùng ông Tú. Thấy tôi chịu đi Miên mừng quá, hấp tấp nhảy lên ôtô, xui xẻo đầu va mạnh vào cửa xe, cô ngã ngồi xuống nệm choáng váng. Claude vội lấy tay xoa đầu Miên, miệng không ngớt hít hà. Đau quá nên Miên quên cả rụt rè, cứ để mặc cho Claude xoa chỗ đầu u.

Thấy Claude galăng với Miên như vậy bỗng nhiên tôi hơi khó chịu. Hình như máu ích kỷ của người đàn ông núp dưới chiêu bài dân tộc nổi lên trong tôi. Claude bảo Miên:

– Cái cửa xe thật đáng trách, làm đau một phụ nữ xinh đẹp thế này.

Mặt Miên ngớ ra, quay sang nhìn tôi. Tôi bỗng bực mình vô cớ, bảo:

– Ông ấy bảo cô này chắc không mấy khi đi ôtô, thật tội nghiệp.

Đã đau lại còn xấu hổ, Miên tự ái quay đi nơi khác, mắt bắt đầu đỏ lên. Thấy vậy, Claude chẳng hiểu chuyện gì, càng lộ vẻ lo lắng. Vẻ quan tâm này thì không cần dịch, Miên có thể cảm thấy được. Tự nhiên tôi tức anh ách, không hiểu vì sao.

Sau một tuần Miên đã biết tự mình đi xe điện về quảng trường L’homme de Fer để vào siêu thị Printemps mua sắm với cái vốn tiếng Pháp bập bẹ của nàng. Đi đâu tôi cũng đi theo giúp đỡ Miên chỉ trừ vào Printemps. Nguyên tắc của tôi là không bao giờ cùng đi với các người đẹp vào những nơi mua sắm. Hơn nữa, hệ thống siêu thị này, với cái tên có nghĩa là mùa xuân, đã nổi tiếng vì lời nhận xét của chính dân Pháp: mùa xuân của quý bà nhưng là mùa đông của quý ông!

Một chiều, đang tập trung trí óc để sửa chữa phần kịch bản chuẩn bị phối kết với kịch bản của Claude Vallons, tôi tình cờ nhìn qua cửa sổ thấy Miên dạo phố vừa về, không phải từ hướng có đường xe điện mà từ trên ôtô của Claude bước xuống. Tôi bỏ bút, chú ý nhìn, quan sát vẻ mặt tươi roi rói của hai người; trời đang mưa phùn, Claude hai tay xách hai túi còn Miên thì cố nhón cao lên để cầm dù che hộ Claude, coi bộ yêu đời lắm.

Một lát sau Miên đập cửa phòng tôi, khoe mấy cái áo da vừa mua ở siêu thị. Tôi lầm lì nhìn lướt qua rồi bảo:

– Người phương Tây rất thoải mái trong quan hệ nam nữ, nhưng phong tục Việt Nam mình nó khác em ạ! Nhất là trong khi mình đang đi trong một đoàn công tác, ít nhiều cũng là đại diện của nước mình…

Miên ngớ ra nhìn tôi, rồi chợt hiểu, cô hỉnh mũi:

– Anh coi em là hạng người nào mà nói thế? Em đi từ Printemps ra gặp Claude đậu xe trước mặt đường. Ông ấy chở hộ em một đoạn, có gì đâu, anh đừng hiểu lầm em.

– Lẽ ra em phải từ chối mới phải. Một mình lên xe của người đàn ông mới quen đâu phải là cách xử sự của người phụ nữ Việt Nam.

Miên đang cầm cái áo da trên tay, ném phịch xuống ghế:

– Thì bữa trước anh bảo em ông ấy có ăn thịt em đâu mà sợ.

Tôi bí nhưng cũng không chịu thua:

– Trước khác, bây giờ khác! Trước là đi làm việc, có lộ trình đàng hoàng. Bây giờ là đi tự do…

Miên phụng phịu:

– Vậy thôi, từ nay chỉ khi nào có anh em mới gặp ông ấy để anh khỏi hiểu lầm.

Nghe vậy tôi vừa ý lắm, dù hơi ép Miên một chút, may mà nàng cũng ngoan.

Chiều hôm sau tôi và Claude cùng nhau phối kết kịch bản. Một kịch bản được hình thành từ hai câu chuyện cổ một Việt, một Pháp xen kẽ nhau. Cuối buổi làm việc, Claude lộ vẻ buồn ra mặt, hỏi tôi:

– Hôm nay sao không thấy cô Miên đến.

Tôi giải thích với Claude là các buổi diễn của Miên đã xong rồi nên nàng không phải tham dự nữa. Đưa tôi về, chàng ta dừng xe nhìn lên lancan tầng ba, một cái nhìn xao xuyến lặng lẽ. Khi bắt tay tạm biệt, chợt Claude bảo tôi:

– Cô Miên diễn thật tuyệt. Hình ảnh Mỵ Châu qua vai diễn của cô ấy làm tôi xúc động vô cùng. Tôi gần như bị ám ảnh về sự chân thành và trong trắng của người phụ nữ Việt Nam…

Tôi siết chặt tay Claude cảm ơn, tảng lờ như không biết đến những gì khắc khoải đằng sau lời tán thưởng rất thành tâm đó.

Nhưng Claude nói tiếp:

– Tôi có ý định mời cô Miên ở lại ít lâu để trao đổi kinh nghiệm với các diễn viên nhà hát trẻ ở đây. Tôi có thể giúp cô ấy xin gia hạn visa…

Lại còn thế nữa! Rắc rối thật rồi. Tôi cố tìm cách lịch sự để giải thích cho Claude hiểu là tôi có nhiệm vụ đưa cả đoàn đi đến nơi, về đến chốn theo ngày qui định. Tôi cũng nói thêm nhận xét của riêng tôi là Miên vẫn còn non nớt chưa có nhiều kinh nghiệm lắm, ở đoàn kịch của tôi còn nhiều diễn viên khác có thể đóng góp hữu hiệu hơn cho các chương trình giao lưu…

° ° °
Tôi chẳng nói gì với ông Tú nên ông chẳng biết gì về đề xuất của Claude. Mà có biết chắc chắn ông cũng nói như tôi hoặc là chỉ ừ hử rồi đẩy sang cho tôi giải quyết. Sau mấy buổi gặp mặt và tiếp tân lúc mới sang, giờ đây ông khá nhàn, đang trông cho mau đến cuối tuần để đến ngày kết thúc chuyến thăm Pháp, ông sẽ bay sang Đức thăm con đang học bên ấy.

Ngày cuối cùng, đang đóng gói hành lý tôi nghe tiếng chuông điện thoại reo. Claude gọi tôi, giọng tha thiết:

– Ông Vinh, nhờ ông dịch ra tiếng Việt cho Miên hiểu. Tôi muốn nói như thế này: “Cô Miên, nếu tôi không được gặp lại cô thì tôi chết mất!”.

Tôi quay qua Miên. “Claude gọi em đấy”. “Ông ấy nói gì, hở anh?” – Miên hỏi, vẻ thờ ơ, nàng đang bận nhét các thứ quà cáp mua được vào đáy chiếc vali chật hẹp. Tôi cố vắt óc để bịa: “Ông ấy nói những buổi diễn của em như vậy xem như tạm được, mong lần sau em sẽ khá hơn và không sai sót nữa”. Miên hỉnh mũi: “Cái ông Claude này hay nhỉ, nói năng cứ như là ông nội người ta không bằng. Nhờ anh dịch giùm: “Bái bai, chẳng có lần sau đâu nhé!”.

Lẽ nào dịch thế được, chắc chắn tôi chẳng muốn chọc giận đối tác của mình. “Claude, Miên bảo cô ấy sẽ nhớ mãi Strasbourg, nước Pháp và những ngày làm việc với ông. Cô ấy sẽ không bao giờ quên ông…”.

Tôi thực tình hào phóng những lời lẽ tình cảm với Claude. Sợ gì đâu, ngày mai tôi đã đưa Miên về nước rồi.

° ° °
Ông Tú bay sang Đức lúc 8 giờ sáng, tôi phải đưa ông lên sân bay và lo các thủ tục cho ông, vì vậy tôi bảo Miên chuẩn bị hành lý lên Charles de Gaulle cùng một lúc, mặc dù phải đến 12 giờ máy bay về Việt Nam mới cất cánh.

Như mọi lần, nàng ngoan ngoãn nghe lệnh tôi, không dám kêu ca gì. “Mình chưa chào ông Claude, thế có phải không?” – Miên hỏi. Tôi nghiêm nghị: “Hôm qua anh đã đại diện cả đoàn tạm biệt ông ấy rồi. Vậy là đủ”.

Ông Tú vào phòng cách ly rồi, tôi và Miên ngồi chờ làm thủ tục về Việt Nam. Tôi đọc báo còn Miên uể oải thỉnh thoảng lại che miệng ngáp vặt. Thời gian trống trải làm tôi bỗng nhiên thèm thuốc chi lạ. Vẫn còn mấy điếu con mèo, tôi nhìn quanh, tìm phòng dành cho người hút thuốc. Miên bảo:

– Anh hút thuốc dữ quá, hại phổi lắm.

Tôi cười, chống chế:

– Không sao, anh sắp bỏ rồi.

Từ phòng hút thuốc bước ra, tôi nhìn về phía lối vào, chợt ồ lên một tiếng! Claude xuất hiện, tay cầm vali:

– Tôi có kế hoạch đi nghỉ ở Thái Lan nhưng nay tôi đổi ý, muốn đi Việt Nam. Tôi cần có thêm chi tiết, không khí và cảm hứng cho vở kịch sắp tới…

Mặt tôi tươi cười nhưng trong bụng thầm rủa: “Quỉ tha ma bắt!”. Claude bước vào quầy làm thủ tục, nói gì đó với cô nhân viên sân bay, cô liền rà lại trên sơ đồ ghế ngồi. Tôi hiểu là Claude đã yêu cầu sắp chỗ cho ba chúng tôi ngồi bên nhau.

Mười tám giờ đồng hồ ngồi trên máy bay đối với tôi thật dài. Claude ngồi giữa tôi và Miên. Tôi thấp thỏm không sao ngủ được. Trước khi đi Đức, ông Tú đã giao cho tôi trách nhiệm thay ông làm trưởng đoàn. Tôi phải chịu trách nhiệm với đoàn viên đến cùng. Suốt đêm tôi ngồi không ngủ, mặc dù tiếp viên đem đến nào gối nào mền… Claude cũng mở mắt yên lặng, chỉ có Miên ngủ say vặt vẹo trên ghế cho đến mãi khi máy bay hạ cánh xuống Bangkok.

Sân bay Bangkok mới xây lại, lộn xộn, khác hẳn quang cảnh lúc chúng tôi transit lần đi. Tôi lấy hành lý từ băng chuyền, chất lên xe đẩy. Phía sau tôi, Miên chới với theo mấy túi hàng, Claude nhanh tay lấy hết giúp nàng, chất lên xe đẩy của mình. Miên hai tay thong thả, vừa bước theo Claude vừa cười bảo tôi:

– Có ông Tây này đỡ quá.

Tôi nhủ thầm: ”Mình sơ ý thật!”. Bám sát theo Claude, tôi quyết tâm thực hành chức năng giám sát của trưởng đoàn. Claude và Miên bắt đầu nói chuyện với nhau, theo kiểu ông nói gà bà nói vịt. Tôi chú tâm nghe hai người nói chuyện, bụng mừng thầm: chẳng cần phải giữ, rào cản ngôn ngữ đã bảo vệ Miên cho tôi rồi. Chợt cơn thèm thuốc lại nổi lên, tôi phải vào phòng hút thuốc.

Chỉ trong thời gian hút chừng nửa điếu thuốc mà không ngờ Claude và Miên đã bỏ tôi một đoạn khá xa. Quỉ thật, sao Miên dám không đứng lại chờ tôi. Đẩy xe đến chỗ tập kết chờ check in đi Việt Nam, tôi thấy hai người đã ngồi đấy rồi. Miên bảo như phân trần:

– Túi xách của em ở trên xe đẩy của Claude. Em ra hiệu bảo chờ anh nhưng Claude bảo anh biết chỗ này rồi.

Tôi khịt mũi. “Claude nói gì làm sao Miên hiểu được?”. Thấy tôi lạnh tanh, Miên lo lắng, nói lí nhí:

– Em cũng thử nói chuyện với Claude một chút. Câu nào không hiểu thì đoán mò…

– Việc gì phải thế. Cứ chờ anh cùng đi, cần nói gì anh sẽ giúp cho.

Miên “Dạ”. Lại yên lặng. Cân hành lý xong, ba người ngồi yên, không ai nói với ai câu nào. Sao lạ thế?

Tôi nhìn đồng hồ. Lại thèm thuốc. Cơn thèm thuốc mạnh hơn nỗi phập phồng về trách nhiệm trưởng đoàn. Vào phòng kín, tôi gắng hút nhanh nửa điếu còn lại rồi vội ra. Claude và Miên đâu mất, ngẩng cổ nhìn lên, tôi thấy hai người đã ở trên băng chuyền lên phòng cách ly. Miên đứng bậc thang phía trên quay xuống, Claude đứng phía dưới, hai khuôn mặt nhìn vào nhau, bốn bàn tay múa liên tục. Tưởng đang phác họa một tiết mục gì, hóa ra họ đang nói chuyện. Trong bụng tôi cười thầm…

Vào máy bay. Tôi làm thủ tục sau nên ngồi một mình. Trước đó ba hàng ghế, Miên ngồi gần Claude. Bốn bàn tay vẫn liên tục ra hiệu, không im lìm như lúc có tôi lúc nãy.

Hai giờ đồng hồ sau, máy bay đáp xuống Nội Bài.

Tôi đi rất vội mới bắt kịp hai người ở băng chuyền nhận hành lý. Claude có vẻ hớn hở như người vừa trúng cá cược, còn Miên thì hai mắt đỏ hoe.

– Sao vậy em? Em có sao không?

Tôi lo lắng hỏi Miên, lần đầu tiên trút bỏ được cái vẻ lầm lì quan trọng để thốt lên với nàng một lời thật âu yếm.

Miên nắm lấy tay tôi:

– Em không ngờ anh ạ, lúc ở Pháp nhiều khi em thấy Claude thật chán vậy mà thực ra anh ấy lại là người rất có tâm hồn… Cảm ơn anh thật nhiều, anh không đề xuất em đi chuyến này thì em không gặp được con người dễ thương như vậy.

Mặt tôi từ tái chuyển sang đỏ, rồi tím lịm đi.

Claude thì đang mải lo nhặt những gói hành lý của Miên đặt lên xe đẩy của mình. Tôi hậm hực nghĩ: làm sao Miên hiểu hắn ta nói gì mà dám quả quyết là có tâm hồn hay không!

Bên ngoài đang mưa, những hạt bụi li ti bay khắp trời. Bỗng chợt nhớ câu thơ của Trần Dần:

Mưa rơi
Không cần phiên dịch!

(Trần Thùy Mai)

Hoa phù dung dưới núi

anh-nghe-thuat-chon-huu-054
Khi mới vào tu học, tôi được giao chăm sóc vườn hoa trước chùa. Tên vườn là Vô Ưu, nghĩa là không phiền não.  Vậy mà tôi đã bắt đầu ưu phiền từ đó.
Tiết mạnh xuân, thầy tôi cho dựng thêm mấy nếp nhà cỏ men hồ. Đệ tử dạo này đã hơn mười người, phải có chỗ để tĩnh tâm, tụng niệm. Mỗi nếp nhà được đặt một cái tên. Nhà tôi ở ngay bên khóm hoa súng tím, gọi là Lăng Hoa Cốc.
Giữa những sơn cốc nho nhỏ hiền lành là khoảng đất vừa khai hoang. Chúng tôi trồng những thứ cỏ cây mà khách hành hương đem tới. Một hôm tôi hỏi: “Bạch Thầy, người ta nói Phù dung sớm nở tối tàn, nó vô phước vô phần, không phải là hoa dâng Phật. Mình có trồng không?” Thầy bảo: ” Thế nào là hữu thế nào là vô, thế nào là sớm thế nào là tối, người đời có lý giải được chưa, sao lại đem gán cho hoa?”
Tôi vào chùa sau chót, ai cũng là sư huynh, ai cũng được hầu thầy còn tôi chỉ có việc loanh quanh trong vườn, không mấy khi lên chính điện. Hóa ra nhờ vậy tôi  được gần thầy hơn ai hết. Sớm, chiều, thầy  xuống thềm, thăm cây, có lúc cùng tôi tưới hoa. Rủi cho tôi, tươi tốt chưa bao lâu thì có lũ bọ  vàng từ đâu bay về. Giống này đặc biệt thích những cánh hoa mỏng và có vị ngọt. Hoa Phù dung hồng, hoa Nương tiêu tím bị chúng ăn như ăn rau. Một góc vườn đang rợp hoa, chúng bu lại nửa giờ sau chỉ còn một đám lá xơ rơ tơi tả. Tôi điên lên, cầm cái chổi tre, thấy con nào sán đến là vung lên đập. Những con bọ nát bét trên mặt đất, máu của chúng tím như nước mồng tơi bắn ra, dính cả vào áo tôi.
 Sư huynh nhìn thấy, bảo: “Vì cái đẹp mắt trong một buổi, mà giết mỗi ngày mấy chục mạng, có đáng không?” Tôi đang tức, dang tay vun vút đập thêm cả chục con. “Thứ đồ phá hoại này, để làm chi hại đời”. Đập mãi không tiệt nọc, tôi hùng hổ vào gặp thầy, xin tiền mua thuốc trừ sâu. Các sư huynh  ngồi đấy đều cười. Tôi càng tức. “Con bọ có mạng sống vậy bông hoa không có mạng sống ư? Bạch thầy, xin thầy giảng cho con nghe phải làm sao? Giết bọ cứu hoa hay bỏ hoa để nuôi bọ?” Thầy mỉm cười bảo tôi: “Việc có chừng đó con không tự ngộ được sao?” Tôi thở hắt ra: “Con xin chịu!” Thấy tôi bực bõ như vậy, thầy bảo thôi, ngày mai giao vườn cho người khác, tôi vào làm thư ký giúp thầy.
Thầy viết sách, soạn kinh, lúc nào cũng viết trên giấy trắng. Chùa xa không có điện, không có máy vi tính. Bản thảo của thầy, tôi đem xuống phố đánh máy cho người ta đem in. Nhiều khi thầy làm tôi buồn lòng. Tiền đánh máy đem đi bao nhiêu, đánh xong hết bao nhiêu, mỗi ngày thầy đều đếm trang,  bảo tôi kê khai rõ. Thấy tôi buồn lộ rõ trên nét mặt, thầy hỏi. Tôi thưa: “Thầy giao cho sư huynh cầm tiền triệu đi mua sắm, không bao giờ hỏi. Chúng con đều là đệ tử của thầy, sao phân biệt như vậy?” Thầy đặt bút xuống, nhìn tôi. Trong chùa, chỉ có tôi là dám hỏi vặn thầy như thế. Thấy thầy không trả lời, tôi lại cố hỏi. Thầy bảo : “Con không tự biết mình, dù thầy có nói tại sao, chưa chắc con đã cam lòng.” Ngày mai, thầy để tôi tự ý, không xem xét gì nữa.
Có lần thầy hỏi: “Con ở chỗ sơn lâm, bây giờ ngày nào cũng vào phố, lên mạng, có bỡ ngỡ không?” Thầy e bước vào một thứ phương tiện hiện đại mới mẻ như cái máy vi tính, tôi không bắt kịp. Đó là vì thầy không biết đó thôi. Trong cái máy tính kia còn có những thế giới huyền ảo xa xưa hơn cả mái chùa trong sơn ao này… Thầy không biết, những ngày này, qua phép màu của game online, tôi đang ẩn náu ngay trong Tàng kinh các của Thiếu Lâm tự.
*
*  *
Tên ác ma đã chạy rồi, nhưng Lăng Hoa Tử, tức là tôi, vẫn mải miết đuổi theo. Tiếng chân, tiếng hú của địch nhân vang dội trong núi rừng. Mặc. Tôi ráo riết. Không thể tha cho hắn. Mới vừa rồi  hắn đã khống chế cô gái tội nghiệp, bắt quắp vào nách mang đi.
Tôi vung kiếm. Hắn mặc  giáp sắt. Nhưng kiếm của tôi là thanh kiếm bén, đoạt được sau nhiều lần trừ gian diệt bạo. Máu tóe ra từ bụng hắn, đỏ bầm, tung tóe từng chấm lai láng trên màn hình tinh thể lỏng… Cô gái tạ ơn tôi. Cô ta xưng tên là Dung muội, cũng là một nữ kiếm thủ. Nhìn khăn áo và khí giới của nàng thì cũng biết là vào làng game thủ từ lâu rồi, dù bản lĩnh không bằng tôi. Nguy rồi, tình huống mới đã xảy ra, từ bốn nẻo rừng, bọn ác nhân bịt mặt đang túa ra. Dung muội bảo tôi : “Muội phải cắm vào sọ chúng nó mấy chiêu Cửu âm bạch cốt trảo. Huynh giúp muội một tay  nhé “.
  Lúc đó đã đến giờ về chùa. Dung muội rỉa tôi là đồ nhát như thỏ đế, thấy lũ bịt mặt thì hoảng nên chạy làng. Tôi phân trần một lúc mới out được… Về đến chùa, trời đã tối. Tôi ngồi ăn một mình trong Lăng Hoa cốc. Những chiêu kiếm loang loáng trong tâm trí. Thầy bước vào cốc mà tôi không hay. Thầy gọi : “Phước Tuệ!” Tôi giật mình, buột miệng: “Có tại hạ” Thôi chết, lại quên, lẽ ra phải nói là Dạ, con đây chứ. Thầy đến sát một bên rồi mà tôi vẫn còn thấy Dung muội cầm kiếm chạy băng băng trước tên ác ma. Mãi khi thầy vỗ lên vai, tôi mới sực tỉnh: “Dạ, thầy gọi con?” Thầy ngồi xuống chiếc chiếu trải giữa nền ván, gọi tôi đến ngồi trước mặt, niệm chú lâm râm rồi nhẹ nhàng đặt tay lên trán tôi. Thầy bảo : “Ngày mai là bắt đầu mùa an cư. Thời thầy mới xuất gia, ba tháng an cư không ai  được ra khỏi chùa, ai cũng phải an tĩnh để trì tụng. Nay khác rồi, có công việc thì đi, nhưng phải về chùa trước sáu giờ chiều”. Tôi nghe, nhướng mắt kinh hoàng, vẻ mặt tôi khi đó chắc nhuốm sắc khí mơ màng của người say thuốc.
Tuy vậy, tôi cũng giữ ba tháng an cư không sai phạm điều gì. Dễ lắm, những bài giảng Phật pháp của thầy, tôi thuê người ta đánh máy hết. Thời gian của tôi dành để lang thang hành hiệp, cùng Dung muội lên núi cao, xuống vực thẳm, có khi rơi vào hầm bẫy của bọn hắc đạo. Dung muội bản lĩnh còn non, bởi thế rơi vào cạm bẫy bọn ác tăng không biết bao nhiêu lần. Tôi thì cao tay hơn. Bây giờ, trong võ lâm giang hồ, nhiều thằng ác ma thấy Lăng Hoa Tử xuất hiện liền phải năn nỉ: “Lạy anh xin tha cho em”. Tha sao được, thằng này chính là thằng dâm tặc luôn đón đường bắt cóc Dung muội. Tôi mắng nó: “Tao chờ mày để giết lâu rồi”. Kiếm tôi vung lên, xọc ngay vào bụng thằng ác. Máu nó túa ra, bắn những giọt đỏ tươi trên màng hình tinh thể lỏng. Sao nó giống những tia máu màu tím mồng tơi của lũ bọ vàng tôi đã đập chết vô cùng. Một cảm giác cuồng hăng ào lên, tôi vung kiếm bốn phương tám hướng, xọc vào bụng tên này, chém rụng đầu tên kia, tôi dũng mãnh vô song, tôi là vô địch…
Giữa mùa an cư, thầy cho đệ tử họp lại trước chính điện. Chúng tôi được nghe tam quy và ngũ giới. Sát giới, sắc giới, tửu giới… Ha ha, có bao giờ thầy tưởng tượng được Phước Tuệ này đi dung dăng dung dẻ với cô bé Dung muội nẩy lửa từ núi cao đến vực sâu, chém rụng không biết bao nhiêu là cái đầu và nốc bao nhiêu bình mỹ tửu để luyện “túy quyền”… Nhưng đâu có can gì, đó là trò chơi mà, đâu phải thực. Sự thực tôi vẫn mỗi ngày trì giới ở đây, mỗi ngày từ chùa vào phố đến ngồi trước cái máy tính hiền lành, chiều lại về đúng giờ. Sư huynh Đăng Minh bạch thầy: Phước Tuệ siêng năng việc Phật sự, giữ đúng thanh quy, công việc đánh máy thầy giao chưa bao giờ trễ nải. Thầy nghe, lặng im không nói gì.
*
*  *
Sau này tôi tự hỏi: Lúc ấy sao thầy im lặng? Nếu lúc ấy thầy nói thì có thể chuyện sẽ khác đi? Nhưng thầy tôi vẫn bảo: Ngăn dòng nước chảy có ích gì? Lúc ấy, trong tôi không phải dòng nước, mà một dòng thác đang cuồn cuộn ập xuống.
Tôi dần dần nổi tiếng trên chốn giang hồ. Điểm chơi của tôi đã ngoài bảy trăm. Uy tín một cao thủ võ lâm đâu cho phép dừng tay gác kiếm mỗi lần đến giờ về Lăng Hoa Cốc. Mùa an cư chưa dứt mà giờ tụng kinh ở chùa dần dần vắng bóng tôi… Một chiều, mải chạy tìm tung tích Dung muội trong trại giặc, đến khi giải cứu được nàng, tôi thở phào một hơi dài, liếc ra ngoài trời, ngạc nhiên thấy trời hôm nay sao mãi chẳng thấy tối. “Bác ơi, cho cháu tính tiền giờ”. Liếc nhìn phiếu thanh toán, tôi ngạc nhiên, lúc này là 9 giờ sáng, té ra tôi đã chơi thâu đêm mà không hay! Tôi xô ghế đứng dậy, bỗng nhận ra mình kiệt sức, trước mắt đầy đom đóm, trong tai ù ù những tiếng thét khủng khiếp thất đảm của lũ môn đệ phái Độc Vật. Tôi ngã người ra sau, cảm thấy mình đang rơi xuống vực, mê man.
Người ta chở tôi về chùa. Bây giờ thì cả chùa ai cũng biết tôi đi chơi game. Thầy thở dài: “Đời đã ảo, lại chơi trò ảo. Vậy là ảo đến hai lần”. Nghỉ ngơi mấy hôm, tôi dần hồi sức. Ngồi nhìn ra từ Lăng Hoa cốc, thấy những cây phù dung trong vườn Vô Ưu đã cao quá đầu, mỗi sáng nở đầy hoa. Đến trưa, hoa chuyển sang hồng thắm, xế chiều thì cuộn tròn đỏ thẫm màu sen. Trong đêm, hoa rụng âm thầm, sáng dậy thấy những cuộn tròn đỏ lác đác trên mặt đất. Trên cành lại hiện ra thật nhiều hoa mới, cánh trắng phớt hồng. Tôi thầm nghĩ: Không biết vì sao chẳng thấy lũ bọ vàng quay lại?
Vừa khỏe lên một chút, tôi liền quay lại với giang hồ. Vía tôi đã nằm trong thế giới đó, những gì ngoài đời này chỉ là cái bóng của sự sống. Những đêm dưỡng  bệnh trong Lăng Hoa Cốc, tôi nghe tiếng ai kêu thảm thiết trong những hẻm núi hư vô: “Lăng Hoa Tử!” Mồ hôi tháo ra đẫm áo, tôi vùng dậy, thấy cái vía mình chạy hoảng hốt lang thang dưới ánh trăng, trên những con đường mòn quanh co trong Thung Lũng Đoạn Hồn. Tiếng ai gọi tôi, thê thiết quá… Đúng rồi, tiếng của Dung muội, tôi đã bỏ nàng một mình, tả xung hữu đột với bầy ác tặc. Tôi vùng dậy, điên cuồng đi quanh bốn góc  chòi tranh. Đăng Minh đang ngồi bên chiếu. Sư huynh đã thức suốt đêm canh chừng tôi, nhưng lúc ấy tôi không nhìn thấy gì cả… Mở cửa liếp, tôi bước ra ngoài trời sương, lao mình theo tiếng kêu cứu của Dung muội. Sư huynh ôm ghì lấy tôi. “Em đang sốt, nằm xuống, đừng đi”. Trong đôi tay của sư huynh tôi vùng vẫy kịch liệt, rồi gục xuống, mắt dại đi…
Hôm sau, tôi trốn ra khỏi chùa. Đúng như linh cảm của tôi, Dung muội đã chết. Nàng bị Đông Hải Ma Đầu phóng kiếm trúng, ngã lộn nhào từ núi xuống đáy vực. Một mình nàng làm sao đương cự. Một mình nàng. Không có tôi…
   Vậy nhưng trên Yahoo messenger, cái con người đã chết ấy cứ gọi tôi, tiếng gọi tha thiết và đầy âm vọng làm tôi điêu đứng. Tôi rã rời, không còn thiết quay lại chốn võ lâm nữa. Không có nàng, tôi cũng dừng bước giang hồ. Lăng HoaTử gác kiếm khi điểm chơi đã quá chín trăm, không có tay chơi nào trong võ lâm không nể mặt… Bây giờ, tôi mới biết Dung muội quan trọng đến mức nào, trong cuộc sống của tôi.
Cuối cùng, chúng tôi nhất định phải gặp nhau.
  Trong góc quán ven sông, tôi gọi một ly rum, chờ nàng tới. Cả hai chúng tôi đều chọn cùng một dấu hiệu: chiếc khăn mu soa buộc quanh cổ tay. Thiếu gì cách làm dấu, nhưng tôi và Dung muội đều cho rằng cái khăn quấn quanh cổ tay trông có vẻ phiêu du lãng tử…
Nàng đến. Tôi thấy nàng dễ dàng từ chỗ ngồi hướng ra cổng. Bước xuống taxi, vừa đi nàng vừa nhớn nhác nhìn lui như sợ có ai nhìn thấy. Bây giờ thì nàng đang sải bước qua những khóm Bonsai trước quán. Tim tôi đập như vũ bão.  Nàng không giống hình ảnh của Dung muội trên màn hình, không có bộ ngực cương nở, không có kiếm đeo vai, không có đôi mắt to choán gần hết gương mặt. Nàng gầy mảnh, ẻo lả như hoa phù dung, da trắng xanh như chưa hề gặp nắng trời. Trong bộ quần áo rất mốt nhưng nhàu nát, nàng bước đi ngập ngừng như đang lạc vào một thế giới xa lạ, mắt ngơ ngác nhìn quanh với vẻ ngu ngơ xao xuyến đến não lòng. Không giống trên màn hình, nhưng cốt cách ấy chính là Dung muội của tôi: người nữ kiếm khách tuổi teen luôn níu lấy tôi nhờ chở che, vì có nàng mà tôi thành anh hùng, vì có nàng mà tôi thành vô địch. Tôi run run bước lại bên nàng. Nàng nhìn tôi, lặng phắt.
“Anh không phải là Lăng Hoa Tử!” Thật bất ngờ, nàng kêu lên, cái miệng xinh xinh méo đi, đau đớn. Rồi nàng bật khóc, khóc tức tưởi. Đôi mắt thỏ trong veo cứ  nhìn tôi trách oán. Ức quá, nào tôi có lỗi gì đâu?
Sau này tôi mới hiểu vì sao nàng thất vọng. Còn lúc ấy, chỉ thấy tức giận và hụt hẫng. Lúc đó tôi không thấy mặt mũi mình. Đôi mắt trõm lơ, gò má hốc hác, chiếc áo nâu cũ xốc xếch. Nàng khóc ròng như cha chết, làm nhiều người trong quán bắt đầu quay lại nhìn. Vụt cái, nàng quay lưng, như muốn bỏ trốn. Trong lòng tôi cuồng nộ bỗng nổi lên như lửa. Cơn cuồng nộ này đã thường xuyên đến với tôi lâu rồi, nó đã giục tôi xọc kiếm vào bụng, bủa gươm vào đầu những con người ảo. Nó cho tôi niềm sướng khoái của chiến thắng khi những giọt máu ảo văng tung tóe, chẳng khác chi thứ máu màu tím mồng tơi của lũ bọ vàng… Dung muội cũng là ảo. Cô gái đang chối bỏ tôi đây cũng là ảo. Cơn cuồng nộ cháy bùng,  tôi chộp lấy vai nàng, kéo lại. Tôi thà bóp chết nàng, chứ không để nàng bỏ tôi đi…
Nàng hét lên, dãy dụa vuột ra. Cuống cuồng, nàng lao vào những đám người trên phố. Trông giống hệt con mèo chạy trên đường lộ, chẳng biết chi  đến những quy tắc của loài người. Cứ thoăn thoắt như đang chạy một mình giữa những vách đá, trong Thung Lũng Đoạn Hồn…
Nhưng đây không phải là dãy Nga Mi với những cánh đồng hoa xuyên tuyết giá băng dưới chân núi.
Tôi hoa mắt. Một tiếng thét kinh người. Nàng ngã xuống giữa đèn xe nhấp nhóa. Tôi thấy máu. Máu nàng không tím, máu nàng đỏ. Không phải là máu ảo.
***
Một lần nữa, Lăng Hoa Cốc lại ấp ủ tấm thân rạc rài của tôi. Tôi thấy như mình chết rồi, như đang đứng trên cầu Nại Hà nhìn xác thân mình trôi bập bềnh dưới kia, trên sóng nước. Đăng Minh đút cháo cho tôi. Tôi không muốn mở miệng. Thầy cúi xuống, cầm tay tôi, lắng nghe mạch đập. “Gắng đi con. Không ăn làm sao sống?” “Con không muốn sống nữa. Trên đời chẳng có gì lôi kéo nổi con nữa rồi.” Thầy bảo: “Không còn gì lôi kéo được nữa, chính là giải thoát. Chết có khó gì, sao không can đảm sống để đi cho hết nghiệp chướng của mình?”
Tôi nghe lời thầy. Mấy tháng trời, các sư huynh theo giữ, không cho tôi đi đâu. Tôi cũng không thiết đi đâu, ngày ngày cầm bình tưới theo Đăng Minh ra vườn Vô Ưu tưới hoa. Trong vườn, sắc màu dịu dàng chen nhau như những nụ cười hiền hòa dịu ngọt. Tôi cố tìm lũ bọ vàng, nhưng chẳng thấy chúng đâu. Nếu thấy, chắc tôi chẳng biết xoay xở làm sao. Bây giờ tôi sợ máu, sợ vô cùng.
Đăng Minh và các sư huynh khác loay hoay gỡ những vành rơm nhỏ xuống từ thân cây. Tất cả được gom vào trong bao, buộc lại. “Làm gì vậy?” Tôi hỏi. Đăng Minh bảo: “Bọn anh tết những vành rơm này buộc quanh thân cây. Trong mùa đông, côn trùng vào trốn lạnh, chúng sống trong đó, đẻ trứng trong đó. Mình gom lại, mỗi lần lên núi đem theo, cho vào chỗ hoang dại. Khỏi phải dùng đến thuốc trừ sâu.” Tôi ngước nhìn phù dung nay đã thành cây lớn, sắc hồng rợp trời. Sắc hồng làm tôi bỗng đau lòng… Thầy ơi, con phải đi. Phải đi cho trọn nghiệp của mình…
Thầy cho tôi làm lễ cởi áo. Lòng nao nao, tôi quỳ trước mặt thầy. Thầy bảo: “Ta vốn biết  con không có căn duyên ở chùa. Nhưng ở đời mà sống lành, cũng là tu Đạo”.
Tôi đi tìm Dung, khi ấy đã được gia đình đưa về Bắc. Hơn hai tháng điều trị trong bệnh viện mà đôi chân bị cưa vẫn chưa lành hẳn. Những ngày tĩnh tâm đã khiến khuôn mặt tôi dần lấy lại được dáng vẻ của mặt người…Vậy mà  Dung vẫn  lấy gối che mặt để khỏi nhìn thấy tôi. Mãi sau, nàng bỏ gối xuống, nước mắt chảy tràn trên  mặt. Không phải trong thế giới ảo, đây là cuộc đời thực cay đắng. Dung cứ sụt sịt khóc, còn tôi lặng đi không còn lời để nói.
“Không có ai chăm sóc em sao ?” Tôi hỏi. “Hôm nay thì không. Ba và dì ghẻ em thay phiên nhau, mỗi tuần mới vào một lần. Có thuê một người nuôi bệnh. Vài ngày nữa bà ấy nghỉ, mấy hôm nay dì đang cáu vì  lo không tìm được người khác.”
Tôi thầm cảm ơn Trời Phật đã thôi thúc tôi đến đây đúng lúc.
Một tháng trời tôi cần mẫn chuộc tội bên giường bệnh. Mẹ kế Dung cứ ngỡ tôi là người làm thuê lấy tiền, nên thường xuyên bắt tôi nghe những lời than vãn. Con bé èo uột, con bé được ba nó cưng chiều quá sinh hư. Suốt ngày đóng cửa ngồi trong phòng với cái máy, lớn tướng rồi mà ngây ngô như ngỗng đực. Ai rủ rê mà nó đem chiếc xe đạp Nhật mới kít bán có hơn trăm bạc, mua vé xe tốc hành đi vào Nam. Đi rồi vác cái thân què về, sau này phải nuôi nó cả đời. Dung nghe mẹ kế một cách lơ đãng, miệng lẩm nhẩm hát, hình như cô bé đã nghe nhiều lần lắm rồi, cái tâm hồn non nớt và dại ngộ đã sớm gan lì với nỗi đau. Về sau, gặp lúc vui vẻ, cô bé kể cho tôi nghe: lần đó vì chỉ đủ tiền mua vé xe nên dọc đường phải nhịn suốt, trời lại mưa, vừa đói vừa lạnh, ngồi co ro như con mèo ốm. Vậy mà chẳng biết khổ cực gì cả, chỉ mong mau đến để gặp Lăng Hoa Tử.
Nghe nhắc đến cái tên ấy, tôi bật cười. Hai bàn tay Dung nhỏ bé, mềm và lạnh, đầy mồ hôi, ấm dần lên trong tay tôi. Giờ phút ấy tôi biết định mệnh của mình. Cả hai chúng tôi  đều rất đau, nên sẽ phải dựa vào nhau mãi mãi.
Mùa thu năm sau, chúng tôi dọn về gian nhà nhỏ trong thung lũng dưới chân đồi. Tôi trồng cây, khai hoang, lúc rảnh thì đi nhận hàng thêu cho Dung. Thầy mỗi lần xong bản thảo vẫn sai đệ tử  đưa xuống cho tôi. Bây giờ không như trước, tôi vừa đánh máy vừa suy ngẫm những điều thầy viết.
Đến rằm, mồng một, Dung cũng theo tôi lên chùa lễ Phật. Thấy tôi đẩy xe lăn cho Dung qua đường dốc gập ghềnh, các sư huynh cho đắp đá con đường lên núi. Qua ba con dốc dài, vườn Vô Ưu hiện ra… Dung ngước nhìn tôi, hỏi:
– Người ta nói phù dung sớm nở tối tàn, sao chùa lại trồng trong vườn hở anh?
Tôi cười, nhớ lại có lần mình đã hỏi thế. Tôi giảng giải cho nàng hay: So với những sinh linh chỉ hiện hữu trong một sát na, thì hoa phù dung là quá thọ. Và sự sống dù là mong manh thoáng chốc, cũng đáng cho mình nâng niu yêu quý vô cùng.
Trong sân chùa, tôi gặp lại các sư huynh. Ai cũng trêu đùa vợ chồng tôi. Tôi cũng tự trêu: “Ì ạch theo xe vợ thế này, càng lúc càng xa Niết bàn”. Thầy nghe, lại  cười. Mùa xuân vừa rồi, thầy có hành hương sang đất Phật. Thầy bảo tôi: “Niết Bàn không phải là một địa danh. Ở xứ Phật, người ta bảo, để cho lò than niết bàn đi, để cho ly nước niết bàn đi. Không vọng động, không sôi sục, ấy là Niết Bàn ngay trong lòng. Làm sao biết giữa chúng ta, ai xa, ai gần nơi ấy?”.
Huế tháng chín 2008
Trần Thùy Mai

Chờ nhau ở cuối đường

13125014f9e087490f23_large

Mở cánh cửa, tôi ngạc nhiên vì mẩu giấy rơi ra. “Đến thăm Hằng nhưng không gặp. Mừng cho em. Nếu chiều nay chưa bay, anh sẽ ghé lại lần nữa”. Tôi cầm mẩu giấy, ngẫm nghĩ một lúc. Ai đến thăm? Mừng vì cái gì? Nhìn nét chữ, tôi cố lục lọi ký ức, tự trách trí nhớ mình giảm sút. Dạo này tôi hay quên, có khi vừa nói nửa câu đầu đã quên mất nửa câu sau.
Chợt tôi nhớ ra khi nhìn cái chữ ký kéo dài, đá hất ra. Chữ ký của một người nhất định phải rất ngông và kiêu hãnh. Ơn trời, con người này mà tôi cũng quên được sao?

Hồi đó tôi đi vẽ ở Huế, ở trọ trong căn phòng nhỏ. Một nữ họa sĩ trẻ, chân ướt chân ráo đến một thành phố lạ, tất nhiên được sự chú ý của rất nhiều người. Thiều thì không, nghề của anh là phê bình văn học, hội họa không phải là thứ anh quan tâm. Anh tình cờ đến cùng một người bạn, trong khi ông bạn tán tụng liên hồi thì anh chỉ ngồi uể oải hút thuốc, mặt hướng ra ngoài cửa số, nhìn những mái nhà nhấp nhô chằng chịt dưới trời xanh.

Vẻ lãnh đạm của anh làm tôi tự ái. Khi ấy tôi hai mươi chín tuổi, đi đâu cũng được người ta săn đón, hỏi han. Tôi cho là vì mình có tài, vì những bức tranh mình vẽ có sức hút. Mãi về sau, tôi mới hiểu chỉ vì tôi là một thiếu phụ đang thời xuân sắc.

“Nhìn cô, tôi cứ tưởng như người đàn bà xa lạ trong tranh của Kramskoi bước ra”. Anh bảo. Ban đầu tôi tưởng là lời khen, định cảm ơn. Nhưng rồi nhìn vẻ mặt anh, tôi hiểu ra anh châm chọc, ý nói vẻ mặt tôi vênh vênh lộ rõ cái vẻ nhìn đời bằng nửa con mắt.

Hai tháng ở Huế, nhân có tôi vào, đám văn nghệ cứ tùng tam tụ ngũ, thường xuyên rủ nhau uống bia Vạn Lực ngay quán bên kia đường. Hầu như cứ vài ngày tôi lại gặp anh. Cả Thiều và tôi đều lạnh lùng lơ đãng với nhau nhưng thật ra chẳng có cử chỉ nhỏ nhặt nào của người này mà người kia bỏ sót. Dần dần anh mạnh dạn lên, tiếp cận tôi nhiều hơn, cái vẻ thủ thế khó thương cuối cùng cũng bị quẳng đi không luyến tiếc.

Còn tôi, là phụ nữ, tôi tự cho mình cái quyền được kiêu một chút, nhưng thỉnh thoảng cũng không quên ban cho anh một nụ cười dịu ngọt để vẻ kiêu kỳ của mình khỏi đắng nghét đến mức nuốt không trôi.

Cũng đùa nhau một chút thế thôi, chứ tôi đã có nơi có chốn, lại đang ở Hà Nội. Thiều thì đã vào định cư ở Huế hơn hai năm rồi, mỗi người một cảnh đời, tôi cũng chẳng hề nghĩ đến điều chi nghiêm túc. Lúc ấy chỉ thấy thú vị vì quen được một người nổi tiếng và thông thái như anh. Một người như vậy mà phải quay quắt vì mình! Từ chỗ lạnh lẽo như băng anh đã trở nên hầm hập như lò lửa. Nhiều hôm có bạn mới quen, tôi đi chơi vài ba tiếng đồng hồ, khi về thế nào cũng có mẩu giấy anh giắt ở cửa: “Hằng đi đâu? Anh nóng lòng quá! Hằng đi đâu tùy ý nhưng báo cho anh một tiếng. Anh lo quá chỉ sợ em đi lạc!”

Đi lạc? Huế ngày ấy nhỏ bé, những nơi tôi đến chỉ loanh quanh trong mấy con đường. Làm sao mà lạc được. Tôi nghiệm ra, khi người đàn ông đang đắm đuối vì chinh phục thì bản chất ích kỷ cố hữu không còn nữa, lúc đó họ đối với người đàn bà của mình thật âu yếm, tận tụy, hy sinh, có lẽ chỉ thua tình yêu của người mẹ đối với con mà thôi….

Ngày tám tháng ba, bạn bè ở Huế đến mời tôi đi ăn chè, uống cà-phê, hồi ấy cuộc sống còn khó khăn nên chưa có chuyện tặng hoa như bây giờ. Anh gặp tôi, chẳng nói năng gì cả, chỉ đặt trên bàn gói giấy. Anh về rồi, tôi mở ra: Một chai nước hoa Coco Chanel 500ml, cỡ lớn nhất. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy chai nước hoa huyền thoại ấy. Tôi không đến nỗi không hiểu ý nghĩa của món quà. Đúng ra tôi không được nhận. Nhưng tôi thích quá. Thời ấy không phải cứ hễ muốn mua nước hoa là có nước hoa. Cái thời mà phụ nữ còn phải xếp hàng dài cả mấy mét để mua một bánh xà phòng Hương Nhài hay Hương Chanh… Về Hà Nội, tôi hí hửng khoe với chồng. Chồng tôi phán ngay:

– Vô văn hóa. Chỉ có chồng hay người yêu mới có quyền tặng nước hoa. Giảng viên đại học gì mà ngu, ngu…

Tôi đỏ mặt, biết mình sai nhưng vẫn cãi bướng:
– Vẫn biết thế, nhưng anh là chồng mà có bao giờ mua cho em đâu?

Chồng tôi là trợ lý cho một ông lớn. Đi nước ngoài một năm vài lần, nhưng cái thứ ấy, anh cho là xa xỉ. Mà đúng là xa xỉ thật, thời ấy, quan niệm như anh là bình thường. Đi Pháp về, có mua nước hoa thì cũng để nguyên trong hộp cho các mối buôn mỹ phẩm đến lấy. Anh trực tiếp bán, trực tiếp thu tiền, cất vào tủ. Tôi cũng lười nên để mặc anh làm, lòng tự nghĩ mình thì đoảng mà cũng may lấy được ông chồng đảm.

Tôi chỉ mê một thứ, đó là vẽ. “Em à, cái gì đam mê quá cũng không tốt.” Chồng tôi thường bảo vậy. “Anh cứ làm như anh không đam mê cái gì”. Nghe tôi nói, anh nhìn tôi, không hiểu. Bốn mươi tuổi, anh sắp được đề bạt Phó giám đốc Sở, vì chuyện ấy anh bỏ ăn quên ngủ, chăm chăm vào các thông tin hậu trường, các mối quan hệ. Nhưng đấy là chuyện nghiêm túc và hệ trọng, đâu thể gọi là đam mê như cái chuyện vẽ vời nhăng nhít này. Vì vậy, chai nước hoa của tôi, anh cũng chỉ phán một câu như thế rồi quên luôn, mặc cho tôi dùng thoải mái.

Vô văn hóa. Tôi thấy tội nghiệp cho Thiều phải chịu cái câu nặng nề như vậy. Chẳng qua cũng vì tôi. Tôi đã nói với anh niềm mơ ước của mình, khi một hôm anh kể cho tôi nghe về rượu vang, về nước hoa, về người đàn bà huyền thoại mang tên Coco. Chắc anh đã đi châu Âu rồi nên mới biết nhiều vậy? Không, hoàn toàn không phải thế. “Anh chưa bao giờ đặt chân ra khỏi nước mình. Có một lần có giấy đi tu nghiệp ở Liên Xô nhưng làm hộ chiếu rồi lại bị rút quyết định”. Tôi ngạc nhiên. Cuộc đời tôi song suốt quá nên tôi không biết gì đến những nghịch cảnh quanh mình. Anh giải thích, ngắn gọn: “Anh có chút vướng víu về thành phần xuất thân”. À, thì ra thế. Ông cụ sinh ra anh là một đại thần trong triều đình Huế, có chút vướng víu với Phát xít Nhật. Đời cha làm, đời con trả… Lòng tôi se thắt. “Anh không đi nước ngoài bao giờ, làm sao có cái này cho em?”. Tôi băn khoăn hỏi anh. “Anh chẳng làm ra nhiều tiền, nhưng trong nhà vật lạ của hiếm lại có nhiều”. Tôi hiểu, anh thông minh, giỏi giang, nổi tiếng. Nhiều người quý mến anh, tặng quà cho anh để giúp anh cải thiện đời sống, hồi đó hàng hóa khan hiếm nên thuốc tây, áo quần, mỹ phẩm là những thứ có thể đổi thành tiền dễ dàng… Đó là cái lộc của người trí thức. Nhìn mắt anh u uẩn, tôi thấy lòng se se, vừa nể vừa thương, vừa quý trọng vừa ngậm ngùi. Những điều đó, làm sao mà diễn tả được cho chồng tôi hiểu, đành nhận lời phê phán, không biện bạch cũng không xin tha thứ.

Tôi thay đổi dần dần mà không nhận ra. Trước hết là những bức tranh tôi vẽ. Hồi trước, thi thoảng, chồng tôi lướt nhìn tranh của vợ, nhận xét: “Sao những cô gái này có cái cổ dài vậy? Vẽ như người bình thường có hay hơn không?”. Tôi nghĩ thầm: “Vậy mà thường ngày anh vẫn soạn những bài phát biểu chỉ đạo nghệ thuật”. Nghĩ vậy nhưng nể chồng, tôi vẽ ngắn những cái cổ lại, biết rằng vớ vẩn, nhưng cứ thế cho anh vui.

Thế rồi bỗng mọi chuyện khác đi lúc nào không biết. Một hôm, chồng tôi bỗng la lên: “Coi này, em lại nổi loạn rồi?”. Tôi nhìn, chợt nhận ra, cổ những cô gái đã dài lên khi nào chẳng biết. Nhưng điều đó đối với tôi lúc ấy không còn quan trọng nữa. Tôi không còn quan tâm đến việc làm vừa lòng anh ấy nữa…
Một thời gian sau tôi dọn ra ở riêng. Lúc chuẩn bị ly hôn, các bạn gái tôi đều mắng: “Sao mày ngu thế.” Một người chồng như anh, thắp đuốc mới kiếm ra, có phước mới gặp được. Cái áo lông Đức tôi mặc, chiếc xe đạp Mifa tôi đi, chiếc đồng hồ Seiko tôi mang trên tay, đều là nhờ chồng mà có. “Không hợp với lại có hợp cái gì, chỉ bày vẽ. Chồng mà thiếu cái gì thì kiếm anh khác dặm vào cho đủ. Hà tất phải làm lại từ đầu, mất công lắm mà lại rất phiêu lưu?”. Tôi chẳng cần nghe. Lúc ấy tôi chỉ sống một mình nhưng không hề thấy cô đơn. Thiều ra bưu điện gọi cho tôi sáng, trưa, chiều. “Ăn chưa em?” “Ăn gì, kể anh nghe”. “Hà Nội đầu đông lạnh lắm, đi đâu em nhớ quàng khăn kín cổ”. Tôi sung sướng đầy đủ như đứa trẻ được chăm bẵm thương yêu. Tôi trở lại đi xe đạp Hồng Hà, mặc áo len tự đan, nhịn bớt thức ăn để mua màu vẽ. Nhưng tôi tha hồ vẽ những cái cổ dài ngắn thế nào tùy thích… Chồng tôi bảo: “Anh sắp được đề bạt rồi. Anh rất mong muốn chuyện nhà yên ổn để người ta khỏi trông vào. Chuyện lăng nhăng của nghệ sĩ, anh chẳng thích thú gì nhưng cũng có thể tha thứ, chỉ cần em hối lỗi”. Mẹ tôi người Huế, bà thường không cho tôi ăn cơm dĩa, những năm ở miền Bắc sơ tán khó khăn lúc nào bà cũng dặn tôi ăn phải nên mâm nên bát hẳn hoi. Vì “Dĩa cạn lòng nên con gái ăn cơm dĩa cũng cạn lòng, ra đường trai dỗ mấy câu là xiêu ngay”. Theo bà thì tôi đi vẽ hai tháng, ngày nào cũng ăn cơm bụi, cơm dĩa nên mới ra nông nỗi. Mẹ khuyên, “Con đừng bướng, có lỗi thì nhận lỗi đi, nói một tiếng xin lỗi thì mất chi mô”. Tôi nhất mực không chịu. Tôi mà nghĩ là có lỗi thì tôi đã không làm. Tình yêu đối với tôi không phải mảnh vải vụn đem chắp vào chiếc áo hôn nhân không lành lặn. Tình yêu với tôi là tín ngưỡng, là danh dự, biết rằng lời nói gió bay nhưng tôi cũng không dùng lời nói mà xúc phạm đến tín ngưỡng của lòng tôi, như những tín đồ không bao giờ chịu dẫm chân lên thánh giá.

Tôi tiếp tục sống một mình, ăn cơm độn với bột mì, vẽ tranh, mơ mộng và tâm niệm những lời hẹn: Hành trình cuộc đời dù quanh co đến đâu nhưng nhất định sẽ chờ nhau ở cuối đường. Tôi chờ anh ra Hà Nội. Xe tàu đi lại khó khăn nhưng chắc chắn Thiều sẽ ra cuối tháng này, vì có một cuộc hội thảo tại viện Văn. “Anh có ra dự không?” tôi thấp thỏm. “Tại sao không, anh biết đấy là dịp sinh nhật em mà”.
Tôi sinh tháng tám, nhưng bố tôi vốn là sĩ quan, đã lấy ngày thành lập quân đội để khai sinh cho con, thành thử bây giờ tôi chỉ biết sinh nhật mình nhằm vào tháng mười hai. Cũng chẳng sao, miễn rằng có một ngày của tôi, mà anh đã nhớ, đã trân trọng, nghĩa là sự có mặt của tôi trên đời này có ý nghĩa với anh chừng nào…

Sinh nhật của tôi đã đến, chưa thấy tin gì từ anh. Tôi hơi nóng lòng, lo lắng. Đường hỏa xa lúc bấy giờ còn khó khăn lắm, hay anh nhỡ tàu, hay anh không mua được vé. Không phải đâu, tôi biết tính anh, đã định làm gì thì không bao giờ để hỏng chuyện. Vé tàu khó mua là khó với ai, chứ như anh, thiếu gì người quen giúp đỡ ở thành phố ấy. Tôi đến cơ quan, gọi điện vào trường Đại học, người ta cho biết anh đi Hà Nội hai hôm rồi. Càng nóng lòng hơn, càng lo lắng hơn, tôi lại tiếp tục gọi đến viện Văn, nhờ người quen hỏi thăm. Bạn gái tôi đang làm cán bộ nghiên cứu ở viện, cũng là một fan của anh. “Anh ấy đến đây hôm qua, vui vẻ lắm chứ có bị gì đâu?”. “Thật không Nga, đừng giấu mình gì cả nhé!”. “Sao lại không thật?”. Giọng Nga ngần ngừ như có gì vương vướng, nhưng tôi chưa nhận ra, vì đang cảm thấy đau nhói: Thiều vẫn khỏe, chỉ có điều anh quên ngày sinh nhật của tôi, nghĩa là anh không yêu tôi nhiều như tôi tưởng, tôi không quan trọng với anh như tôi tưởng!

Sau khi nhận ra cái sự thật đầu tiên ấy, một lúc lâu sau tôi mới nghĩ tiếp qua sự kỳ cục thứ hai: Anh đã ra Hà Nội mà lại không nhắn cho tôi, không đến chỗ tôi. Vì sao vậy? Vặn hỏi mãi rồi tôi cũng được Nga cung cấp hai thông tin: “Tao sợ mày sốc nên chưa dám nói. Anh Thiều báo tin sẽ làm đám cưới với một cô sinh viên ở Huế. Mọi người hỏi chuyện với mày ra sao thì anh ấy nói là đâu có gì, chẳng qua là tin đồn thôi”.

Mặc dù choáng váng đến cực độ mà tôi vẫn còn đủ tỉnh trí để nhận ra câu chuyện này hoàn toàn kỳ lạ và thiếu tự nhiên. Kinh nghiệm sống của tuổi ba mươi hai tuy chưa nhiều nhưng cũng đủ cho tôi biết: Khi một câu chuyện có vẻ vô lý đến không hiểu được thì nhất định phải có một tình tiết nào đó trong chuỗi mắt xích lôgic bị giấu nhẹm đi. Tôi biết chắc Thiều không thể tự nhiên sinh ra tráo trở như vậy, phải có một lý do gì khác. Tôi xộc thẳng đến nhà khách của viện, chận Thiều ngay lúc anh vừa thò mặt ra khỏi cửa. Thấy tôi, anh tái mặt, lúng túng một chốc, rồi biết không thể lảng tránh, mà chắc cũng không đành lòng lảng tránh, anh hạ giọng năn nỉ cho tôi biết lý do và xin tôi giữ kín giùm. “Chuyện cưới vợ là anh tung tin vậy thôi để tổ chức khỏi bàn cãi về quan hệ với em, khỏi kết luận anh vi phạm đạo đức… Viện Văn đã chấp thuận dành cho anh một suất đi Liên Xô, đang còn bình xét…”.

Tôi nhìn anh. Khuôn mặt ngang ngạnh, nụ cười bất chấp… tất cả bây giờ nhuốm một màu sắc khác hẳn khiến tôi dường như không nhận ra. Vậy mà không hiểu sao tôi còn ráng hỏi thêm một câu, chẳng để làm gì, có lẽ chỉ để đẩy nỗi đau đến tận cùng:

“Suất đi Liên Xô được bao lâu?”

“Ba tuần!”

Khóc không nỗi nữa nên tôi bật cười khan. Tiếng cười bật lên cũng là lúc tôi kiệt sức, choáng váng mờ mịt, không còn thấy gì trước mắt nữa. Sau này, Nga kể: “Mày té xỉu cái rầm, mọi người nghe tiếng túa ra đỡ vào nhà. Mày biết Thiều làm gì không, anh ấy mắm môi mắm lợi đấm mạnh vào lòng bàn chân mày….”. Nga bảo tôi, muốn biết một người ngất thật hay giả vờ ngất đi, chỉ cần bất thần đấm mạnh vào lòng bàn chân. “Đấm luôn mấy cái mà mày cứ ngay đơ, anh ấy mới tái xanh cả mặt…”. Tôi nhếch cười khinh bỉ đến tận đáy lòng, sao mà Thiều lại nghĩ tôi cũng có thể đóng kịch để níu kéo anh?

Câu chuyện chỉ hôm sau đã huyên náo cả Hà Nội. Nghe tôi ốm, mẹ tôi đến thăm, phàn nàn: “Con dại quá. Khi không làm to chuyện. Chồng con nói, trước đây hắn bằng lòng bỏ qua hết, nhưng bây chừ thì ồn ào quá ai cũng biết rồi, không giả lơ được nữa”. Tôi nằm nhìn lên khoảng không, nước mắt chảy. “Con cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện quay lui”. Tôi tuổi Ngọ, sinh nhằm cung Hải Sư, yêu ai thì yêu rất chí thành nhưng đã thất vọng và bỏ đi thì sẽ không bao giờ ngoái lui…

Tôi ly hôn với chồng, và từ ấy cũng không gặp Thiều nữa. Cứ tưởng anh đã được xuất ngoại vài ba tuần, cũng đủ tích cóp được chút ít của cải. Nhưng một hôm gặp Nga mới biết, đã chuẩn bị lên máy bay thì anh phải hủy chuyến đi. Nghe nói quyết định công tác Liên Xô đã được cấp thẩm quyền ký rồi nhưng phút chót có một nhân vật nào đó ở văn phòng chính phủ có ý kiến. Nghe bảo Thiều đứng trên sân bay, tay xách nặng cả lố hàng hóa, khóc òa như đứa trẻ…

Buổi chiều anh gõ cửa. Tôi ngạc nhiên. Cứ tưởng lời hẹn trở lại chỉ là một câu vu vơ. Hai mươi năm đã qua, tóc anh đã lấm tấm muối tiêu, rõ ra một giáo sư đáng kính với vẻ trầm ngâm suy tưởng và một chút duyên thầm nơi khóe môi cười ngạo nghễ.

Lâu nay tôi vẫn thỉnh thoảng nghe người ta nhắc nhở về những công trình của anh. Anh đã dời về dạy tại Sài Gòn, càng ngày càng có tên tuổi, càng nổi tiếng. Nghe với đôi tai thờ ơ, như nghe về một người nào đó từng quen nhưng đã lâu không gặp.

Vài câu chuyện rời rạc. Tôi thoáng nhìn bóng mình trong tấm gương soi. Ngoài năm mươi, tôi vẫn thường được người ta khen ngợi là trẻ hơn tuổi, là khỏe mạnh, đầy sức sống… Tuy vậy, tôi vẫn cảm thấy dường như mình thích gặp những người bạn mới hơn là gặp lại những người quen cũ, bởi tôi nghĩ sau mười hay hai mươi năm, chắc chắn khi gặp lại người ta phải thấy dung nhan tôi sa sút rất nhiều.

“Em giỏi lắm”. Thiều bảo tôi. Chắc anh đọc trên báo thấy những bài viết về mấy cuộc triển lãm của tôi gần đây. Đã hết hứng thú sống với đàn ông nên hai mươi năm nay tôi chỉ sống với hội họa, đó là niềm đam mê và tình yêu dài lâu nhất trong đời tôi. “Anh vừa đi Pháp một năm. Ở Paris, mỗi lần vào những gian hàng nước hoa lại nhớ đến Hằng… Anh vẫn nhớ lời hẹn gặp nhau ở cuối đường. Ít ra là để nhận một lời trách…”.

Tôi cười. Cuối cùng rồi anh cũng đã thỏa nguyện được đi nước ngoài, mà đi dài ngày, có thu nhập hẳn hoi. Trông anh bây giờ phương phi, bảnh bao trong bộ áo quần hàng hiệu. Nhưng trong mắt tôi, mãi mãi anh chỉ là một đứa trẻ.

Trước khi về anh để lại gói nhỏ trên bàn. “Chút quà phương xa cho em.” Anh về rồi, tôi mở gói: Một chai Coco Chanel nhỏ bằng hai ngón tay út. Tôi lại cười một mình. Dù sao, cũng gọi là có nhớ.

Tôi mở chai nước hoa, vẩy quanh phòng cho đến giọt cuối cùng. Một mùi thơm dịu dàng tỏa lan khắp nơi, vu vơ mà thăm thẳm, như thể bay về từ quá khứ.

Huế 29-11-2009
Truyện ngắn của Trần Thùy Mai

Trò chơi cấm

cungdanxua

Như mọi năm, đúng vào ngày một tháng giêng, ông Thanh tổ chức sinh nhật của mình trong ngôi nhà vườn ở làng quê. Khu vườn bên kia sông Bao Vinh, đầy những lá nhãn xanh um. Không bao giờ ông gửi thiệp mời cho ai. Nhưng như một tập tục, bạn bè ông cứ đúng ngày là đến. Ngày ông còn tại chức, có năm cả trăm người đến mừng sinh nhật. Từ lúc về hưu, mỗi năm người đến một thưa vắng, nhưng vẫn còn vài chục người. Ðó là những người thực sự thân tình: ông biết, ông sẽ không bao giờ mất họ. Trong số đó có cả ông Phi ở cạnh nhà: một ông già hiền lành, chuyên làm cai gian trong các đám tang. Ông Thanh giới thiệu với mọi người: ” Ðây, ông cai gian của tôi, chẳng bao lâu nữa sẽ là người chôn tôi đấy” . Ðáp lời ông, ông Phi chỉ cười. Nụ cười móm mém chân chất .của ông làm người ta nghĩ đến hình ảnh hiền hậu nhất của cái chết.

Hôm nay ông Thanh vừa đúng bảy mươi tuổi. Vào buổi tiệc ban trưa, ông đã ký những giấy tờ phân chia gia tài cho bốn đứa con trai trưởng thành. Ông có một gia sản không lớn nhưng cũng cần phải thu xếp ổn thỏa. Nhìn về phía vợ, ông hỏi: ” Nào, mình có đồng ý với tôi không, hở mình?” Vợ ông rơm rớm nước mắt vì xúc động. ” Ông ơi, sao ông lại hỏi thế, có bao giờ tôi không nghe lời ông?” Ðúng, bốn mươi năm qua, lúc nào bà cũng mãn nguyện làm cái bóng của ông. Suốt đời, ông đã làm lụng, đã đem lại danh giá cho bà. Bốn đứa con, đó là kết quả cuộc chung sống lâu dài và êm ấm giữa hai người. Bây giờ, chúng đã lớn, được ăn học, thành đạt, đã kiếm được những người vợ tốt; tất cả đang ngồi kia, nhìn về hai ông bà, cảm động và yêu thương. ” Ba, ba vội quá, ba còn sống với chúng con rất lâu, vậy mà…” Ông Thanh đẩy hết bút giấy ra xa, như vừa dứt khoát làm xong một công việc nặng nề. Ông nói mà không nhìn ai cả:

– Từ giờ phút này, ba đã xong hết mọi công nợ với cuộc đời. Ba có thể thanh thản yên nghỉ được rồi. Nhưng trong khi chờ đợi, ta cứ vui phải không các bạn?

Nói xong, ông cao hứng uống cạn ly, hát một bài hát vui. Ai nấy đều hát theo ông, tiếng hát tưng bừng xóa tan ngay không khí có phần ngậm ngùi của mấy phút trước.

Còn bây giờ, trời đã tối. Ông Thanh tự cho phép uống nhiều hơn, vì vậy men rượu bắt đầu giăng một màn sương trước mắt ông. Thật kỳ lạ, vào giờ phút ấy, ông chợt thấy phía cuối bàn một người phụ nữ, không biết ngồi đấy từ lúc nào. Hình như người ấy vừa đến, và cả bàn tiệc không ai ngạc nhiên vì mọi năm cũng thế rất nhiều người đến vào phút chót. Chỉ có ông Thanh bỡ ngỡ, không thể nhớ ra người ấy là ai. Tay cầm ly rượu, ông đến gần người khách lạ. Dù ai đi nữa, đó cũng là một người đã nhớ đến ông trong ngày này. Hơi rượu chếnh choáng làm ông không nhận ra người phụ nữ này bao nhiêu tuổi xưng hô thế nào cho phải. Vì thế, đáp lại nụ cười của nàng, ông chỉ biết nắm lấy bàn tay, siết chặt.

– Thưa ông – Người khách mới đến nói giọng hơi ngập ngừng – Hôm nay là ngày sinh nhật của ông, tôi muốn đem đến cho ông một món quà.

Nói xong, nàng đưa mắt nhìn quanh. Thấy chiếc đàn ghita trên vách, nàng ra hiệu nhờ lấy giúp. Rồi nàng so dây, và bắt đầu khúc nhạc của mình.

Tiếng đàn buông từng nốt nhạc rời, chậm, lãng đãng tiếp theo nhau; một thứ giai điệu kỳ lạ. Bỗng nhiên, giữa đêm đẹp trời, ông Thanh tưởng mình nghe tiếng mưa. Mưa mùa thu, dìu dặt và nhẹ nhàng như không buồn đậu xuống đất mềm.

Bất chợt, ông kêu lên một tiếng. Men rượu tan biến trước mắt ông. Ông đã nhớ ra! Khuôn mặt này, nụ cười này. Và tiếng đàn này. Tất cả đã từ lâu ngủ yên trong ký ức ông. Nhưng còn nàng, nàng từ đâu hiện về?

* * *

Khi gặp ông, nàng cũng như thế này. Tóc nàng dài, phủ kín hai vai. Lần đầu nàng ngước lên nhìn ông, trong đôi mắt nâu hiện ra một vầng sáng dịu. Quán cà phê Mimôsa khuất sau dốc đồi. Vào thời ấy, người ta xem việc uống cà phê buổi sáng là một thứ xa xỉ phẩm. Dưới lùm cây xanh và những vầng sương mù dày đặc, cái quán nhỏ âm thầm giấu mình như một thứ tội phạm dễ thương. Và nàng, cũng thế.

Thành phố cao nguyên đẹp nhưng quá buồn, nhất là với một người đàn ông xa gia đình. Những bực bội phiền toái trong mỗi ngày làm việc khiến buổi chiều trở thành khoảng thời gian tự do và vô vị. Một tuần hai lần, ông đến quán Mimôsa để giải khuây. Thiếu phụ áo tím ngồi sau quầy, những bông Muguet cũng mầu tím. Và rất nhiều âm nhạc. Ở đó, lần đầu ông đã nghe bản giao hưởng số 6 của Beethoven – bản giao hưởng định mệnh.

Thiếu phụ người Huế. Chồng ở Mỹ, đang làm thủ tục bảo lãnh cho nàng. Giấy tờ quá phức tạp, rắc rối. Trong khi chờ đợi, nàng giết thời giờ bằng quán Mimôsa. Nàng nói với ông nàng nhớ Huế, nhớ mùi rau diếp xanh trong vườn mẹ. Một lần, ông Thanh về phép. Khi trở lại, ông mang cho nàng một chậu nhỏ trồng đầy rau diếp xanh. Rau diếp mới ăn rất hăng nồng, nhưng lâu ngày thành nghiện. Dần dần, có lúc buồn bực, ông ra khỏi cơ quan, đầu óc căng thẳng, bước đi không định hướng. Mãi đến khi trước mắt hiện ra giàn hoa lấm tấm vàng, cái nhà gỗ thu mình sau hoa lá, ông mới biết đã đi đến chốn về của mình. Nàng đón ông ở cửa, nụ cười lặn sâu trong mắt. Lúc ấy ông Thanh đã nghĩ cả nhân gian là quán trọ, chỉ có nơi này là quê nhà của mình.

Tối hôm ấy, ông ở lại. Ðêm cao nguyên lạnh dịu dàng. Ðến lúc đó, ông mới hiểu nàng thuộc vào loại đàn bà mà người đời vẫn bảo là có bùa mê. Thật ra, đó là một năng lực kỳ bí cho tất cả phụ nữ từ thuở cổ sơ. Nhưng dần dà, người ta giấu giếm nó đi, và quên mất nó. Còn nàng, nàng không quên, không mất, vẫn mãi mãi như thế: một dòng suối hồn nhiên mê đắm.

Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, ông Thanh nghe những âm thanh dìu dặt, lãng đãng rơi dần từng giọt, từng giọt quanh giường. Cựa mình, ông nói khẽ, như người nói mê:

– Trời mưa, em ạ.

Nàng xoay mình, áp đầu xuống vai ông:

– Không đâu anh… Ðó là tiếng nhạc. Bài

Jeuinterdit, nghĩa là Trò chơi cấm.

Ông Thanh tỉnh hẳn. Ông nhìn thấy đĩa nhạc đang quay, những tiếng đàn êm ái như mưa. Và bàn tay nàng đậu trên vai ông, cũng mềm như tiếng nhạc.

Trò chơi cấm kéo dài bao lâu, ông không còn nhớ. Trong thời gian ấy, ông chỉ nghĩ đến một người là nàng. Một người duy nhất, có người ấy thế giới này chợt rộng lớn và vang ngân. Mọi điều ta trải qua, ta thấy, ta nghe đều day dứt, ngọt ngào vô kể.
Rồi đến một ngày, ông quyết định ra đi. Con người thật kỳ lạ, luôn muốn phiêu lưu nhưng không dám vượt ra ngoài những rào cản của cuộc sống bầy đàn. Vả lại, ông nhớ ra, rồi sẽ đến lúc nàng đi xa. Bởi đau lòng hoặc bởi hiếu thắng, ông chọn đi trước để khỏi bị nàng bỏ lại.

Nàng có một trực giác kỳ lạ, hiểu ngay những dự định của ông. Ngày trở về Huế, ông đến chia tay với nàng, như mọi lần về phép. Khi ông hôn nàng, nàng thì thầm:

– Em biết, đây là lần cuối.

Không! Ông kêu lên, siết chặt lấy nàng: Bao giờ cũng thế, mỗi lúc giữ trong vòng tay thân thể dịu mềm của nàng, bản đàn Jeuinterdit lại vang lên bên tai ông. Ông đã không nói dối: đó không phải là lần cuối. Rất nhiều năm sau, thỉnh thoảng ông vẫn được gặp và hôn nàng như thế- Trong giấc mơ.

* * *
Bây giờ nàng ở lại đây, bên ông. Năm tháng qua, nhưng sao nàng quá trẻ. Nàng còn trẻ hơn thuở gặp ông, như một thiếu nữ mới lớn. Ông Thanh run chân, chăm chăm nhìn. Nàng vẫn đàn. Ngày xưa, ông không thấy nàng chơi đàn. Nhưng cũng những âm thanh thế này: chậm- rời, dìu dặt như tiếng mưa.

” Trò chơi cấm” . Ông Thanh nói rất khẽ, nhưng người đàn bà vẫn nghe. Dường như nàng chỉ chờ có vậy. Bản nhạc viết về một cuộc chơi, một trò đùa thần tiên đến nao lòng. ” Vâng, vậy là ông đã nhớ ra” .

Ông Thanh thốt lên:

– Em tưởng là tôi có thể quên sao?

Cả bàn tiệc dồn mắt về hai người.

Người khách nữ treo đàn lên vách, rồi trở lại, đứng
trước ông Thanh. Ánh đèn toả sáng trên người nàng. Nhưng không… Đây thực sự là một cô bé. Một cô bé giống nàng như tạc.

– Mẹ cháu bảo cháu đến đây, và đàn cho ông nghe khúc nhạc này.

– Mẹ cháu… vừa từ nước ngoài trở về?- Ông Thanh hỏi, môi run run.

– Không. Mẹ cháu đã không đi. Vì có cháu.

Cô bé vừa trả lời vừa nhìn ông Thanh như chế giễu sự chậm hiểu của ông. Trên khuôn mặt trẻ thơ đó là đôi mắt của ông, vẻ nhìn của ông. Cô bé đó giống nàng, và cũng giống ông, giống hơn tất cả những đứa con ông đã có.

Sững sờ, ông Thanh ngồi lặng trên ghế.

Cô bé ngồi cạnh ông. Cả hai người, không ai nói gì nữa. Hình như tiếng nói đã trở thành vô nghĩa lúc này.

Cũng như mọi năm, bữa tiệc dứt lúc trăng lên đầu ngọn cau cuối vườn. Nhưng lần này người ta không nghe tiếng cười nói xôn xao từ trên đường tiễn khách ra bến đò để qua sông về thành phố. Cả đoàn người lặng im theo sau ông Thanh và cô gái, như trong một đám rước kỳ dị, bởi ai cũng linh cảm thấy điều bí ẩn nào đó đang đè nặng tâm hồn mình.

Con thuyền đến. Cô gái quay đi. Chợt ông Thanh giữ lấy cô bé:

– Con!

Cô bé quay lại , mắt lóng lánh nước:

– Ba?…

Hai cha con ôm nhau. Mọi người đứng quanh cúi đầu, như trước một cuộc hành lễ. Ðiều bí ẩn đã rõ. Cuối cùng, ông Thanh đã thừa nhận bản thân mình- một thứ mà ông đã chối bỏ từ lâu.

“Hãy ở lại với ba. Ba chưa làm được gì cho con cả. Ba không còn gì cả, nhưng ba vẫn còn sống, ba sẽ làm mọi điều ba có thể, vì con…” Ông Thanh nói dồn dập. Rất nhiều năm rồi, ông mới nghe tim mình đập như thế. ” Không, con không đến để đòi nợ ba đâu. Con đến để nhìn lại cội nguồn của mình. Và cũng để làm đúng ý nguyện của mẹ con, gửi cho ba món quà sinh nhật” . Khuôn mặt trẻ thơ đang lóng lánh nước mắt, chợt rạng rỡ một nụ cười… Rồi cô bé cương quyết xuống thuyền. Bên kia bờ, trong bóng đen sâu thẳm là những ngọn đèn của phố Bao Vinh lung linh trên nước. Giữa sông, trên con thuyền chông chênh dưới trăng, ông Thanh vẫn nhìn thấy con gái mình, rạng rỡ, sáng láng: một món quà sinh nhật quá tuyệt vời.

Ông khóc, im lặng. Nó đã đến, và đã đi. Con của ông. Một đứa trẻ cô đơn, nhưng không hề buồn thảm. Ông không còn gì cho nó, ngoài những lời nguyện cầu. Cầu cho nó cứ mãi đi trên đời như thế, cầu nước sâu cạn dưới chân nó, gió dữ tan trên đầu nó. Cầu Thượng đế hãy phù hộ cho nó, như vẫn phù hộ cho những đứa con sinh ra từ tình yêu.

Trở về nhà, không ai, kể cả vợ con ông Thanh, dám hỏi han gì ông, vì thấy ông trong trạng thái như đi giữa mây mù. Lúc bấy giờ ông không nghĩ tới ai cả không nhớ điều gì cả, ông đã thanh thỏa với cuộc đời ở đây. Bây giờ trong tâm trí ông chỉ có hình ảnh một túp nhà ở nơi rất xa, ẩn sau khóm mimosa hoa vàng. Nơi đó có một người đàn bà lặng lẽ sống, cưu mang và hoài niệm. Sự im lặng ấy phải chăng là chịu đựng hy sinh, hay cũng là một trò chơi ngông cuồng của nàng?

Ông phải gặp nàng, phải hỏi nàng điều đó, và nàng sẽ phải trả lời ông, với nụ cười bí ẩn lặn sâu trong mắt. Ngay trong đêm, ông thu dọn chiếc va ly nhỏ. Ông sẽ đi, ngay ngày mai. Ðã mười tám năm, nhưng ông cứ tin rằng nàng vẫn thế, ngôi nhà ấy vẫn thế, nho nhỏ, ngậm ngùi dưới những cơn mưa mù sương. Ðó vốn là nơi trở về của ông. Ðã đến lúc ông phải quay về. Ông còn phải sống, sống rất dài lâu, vì ông chưa hết nợ với thế gian này.

Sáng hôm sau, lúc mở cửa phòng, người ta thấy
ông nằm, mắt mở. Tim ông đã ngừng đập vào lúc còn say sưa nghĩ đến chuyến đi. Có lẽ vào giây phút ấy bên tai ông vẫn vang lên những nốt nhạc lãng đãng, dịu dàng đến mê người, những ảo thanh của một cơn mưa không dứt.

(Trần Thùy Mai)

Cánh cửa thứ chín

unnamed
Nghề nghiệp của anh buộc anh phải đi rất nhiều nơi, còn cuộc sống của tôi lại luôn ở đây: những ngày rất dài trong khu vườn lặng lẽ.

Một ngày, một giờ, một khoảnh khắc nào đó, đột nhiên hai cuộc đời riêng rẽ bỗng đi chéo qua nhau. Đó là một ngày cuối năm, ngày khởi đầu của tiết lập xuân. Anh gọi điện nhầm đến nhà tôi. Mặc dù biết đã nhầm, anh không gác máy. Và chúng tôi nhận ra nhau.

Sau đó ít lâu, chồng tôi bảo: “Bệnh của Quyên dạo này khỏi rồi sao?”. Tôi chỉ cười lặng lẽ. Chứng thống kinh hành hạ tôi hơn hai năm nay. Những cơn đau khiến cơ thể tôi lạnh giá. Sau nhiều tễ thuốc đắng không chút kết quả, ông lang già cuối cùng đã khuyên tôi tìm tới sự tập luyện của tâm linh.

Buthayoga, đó là thứ nghệ thuật làm nóng cơ thể từ sự khởi động của cái tâm thường bị vùi sâu che khuất. Trong bốn bức tường rêu này tôi có đủ thời gian và sự tĩnh lặng để làm việc đó. Nhưng linh hồn tôi không tĩnh, tôi không phải là đạo sĩ. Tôi chỉ là một người đàn bà.

Giờ đây, tôi dần dần ra khỏi cơn đau. Nhờ một sự tình cờ. Một giọng nói. Đó là anh.

Có lần nào đó, tình cờ anh nhắc đến ngày lập xuân ấy. “Quyên có biết vì sao anh không gác máy không? Vì bỗng nhiên anh nghe trong giọng nói tưởng như bình thường của em một điều gì đấy, giống như tiếng kêu cứu của một người tù”.

Còn tôi, ngược lại. Từ giọng nói anh, tôi thấy mầu xanh và những đám mây. Sau này tôi mới nhớ ra, đó là cảm giác khi thấy đường chân trời. Tôi đã có cảm giác ấy một lần, thuở còn bé, khi về thăm quê ngoại.

° ° °
A lô, Quyên đấy hả? Này, có phải em thường nghe người ta tả mặt trời mọc trên biển không? Vậy mà bây giờ anh đang nhìn thấy mặt trời lặn trên biển “Sao thế? Vậy là mặt trời lặn ở phía đông?”.

“Không… – Anh cười, như thể đang nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi. – Chỉ vì hôm nay anh đang ở Hà Tiên. Nơi đây biển ở phía tây đất liền, thế thôi”. Trong tiếng anh cười, như có tiếng sóng biển, có ánh hoàng hôn cháy rực trên sóng và phản quang của một vùng đất xa rất xa – Nơi tôi chưa từng thấy bao giờ. Tôi có thể thấy gì, ngoài khu vườn nhỏ bị che kín. Nhưng ở đây, mặt trời, biển và sóng đang hiện ra trong bốn bức tường của tôi: Tôi đi bên anh, trên bờ cát. Nắng buổi chiều rất tươi đổ bóng chúng tôi trên những làn sóng mịn. Rồi cả hai cùng ngồi trên chiếc thuyền con, rẽ sóng về phía hòn Phụ Tử. Tóc tôi bay rối tung, trong khi anh chỉ cho tôi những hòn núi đá nhấp nhô trong vịnh Thái-lan. Tất cả đều nhuốm mầu mặt trời chiều, mặt trời đỏ au đang từ từ lặn sâu vào sóng biển.

Ngoài cổng, Hòa đã về. Tôi ra mở cửa cho chồng. Chiếc Chaly trắng nổ máy xành xạch. Như mọi lần đi làm về, Hòa hỏi, giọng bình thản:

– ở nhà có việc gì không?

Cũng như mọi lần tôi trả lời:

– Không, chẳng có việc gì.

Tôi lấy nước cho Hòa rồi vào bếp sửa soạn bữa cơm. Hòa thả người xuống xích đu đọc báo. Làm sao Hòa biết, tôi vừa từ vịnh Thái-lan trở về, và giờ này trong tâm trí tôi vẫn chói rực một mặt trời trên biển tây.

Anh là người đầu tiên giúp tôi biết người ta có thể sử dụng điện thoại để san sẻ cuộc sống với nhau, chứ không phải chỉ để trao đổi những thông tin ngắn gọn. “Hôm nay Quyên có gì vui không?”. Tôi cố lục tìm trong ngày dài của mình một điểm sáng nào đó. Những cuộn len. Những tấm áo đan dở. Sự mưu sinh tủn mủn…”. A, nhớ ra rồi, trước nhà em có một cái ao, sáng nay có một bông súng hồng vừa nở”. “Hôm nay, người hàng xóm đến cho một con mèo mầu lam đẹp lắm. Anh có tin có một con mèo mầu lam không?”. Có hôm anh gọi cho tôi đúng vào lúc nấu xong bữa ăn chiều. “Quyên vừa nấu những gì, nói cho anh biết, cho anh thèm”. Tôi kể cho anh nghe: canh mít nấu tôm, cá bống kho tiêu, rau muống luộc… Anh hít hà trong điện thoại. Tôi rủ: “Đến đây ăn cơm”. “ừ, nhớ để phần anh nghe”.

Dần dần tôi bắt đầu tập cách thổ lộ những gì đã nén quá sâu trong tâm trí, điều trước đây tôi chưa hề quen. Tôi nói với anh về thời thơ ấu, khi mẹ đã bỏ đi và cha tôi đùm bọc đàn con trong một tình thương mà tôi linh cảm có lẫn lộn cả oán thù. Mỗi lần có lỗi, tôi bị đánh mà không được khóc. Giờ đây trước những nỗi đau, tôi đã quen với lối khóc không trào lệ. Tôi đã câm nín như thế cả vào ngày đứa con trai lên mười được người em chồng đưa về San Diego làm con nuôi. Tôi ôm con vào ngực trước khi trao cho Hoành, bây giờ ngực tôi còn mãi hơi ấm nóng của đứa trẻ, khiến những phần còn lại của cơ thể tôi mãi mãi lạnh giá.

Chồng tôi thỏa mãn. Một căn nhà hương hỏa, một công việc ổn định, một người vợ hiền, một đứa con trai may mắn được đỡ đầu và chắc chắn sẽ thành đạt. Hòa bảo tôi: “Vợ chồng mình sẽ sinh thêm đứa nữa”. Nhưng tôi không sinh nở. Chứng thống kinh hành hạ tôi. Mỗi tháng một lần, cơn đau bắt tôi cắn răng, không rên rỉ. Mỗi lần ngồi tập môn Buthayoga, tôi thành khẩn nguyện cho mình khỏi bệnh. Những ngón tay, theo đà thúc đẩy của một thứ ký ức siêu nhiên nào đó cứ xoa mãi trên bụng, trên thắt lưng tôi. Nhưng cánh cửa tâm linh không hề mở. Những ngón tay chịu không chạm nổi vào những vùng khuất trong tôi.

Nhưng bây giờ, trong bốn bức tường rêu đã có cả biển trời. Những cơn đau đã dịu xuống. Đã dứt.

“Alô, Quyên đó hả? Hôm nay có gì vui?”. “Hôm nay là ngày rằm, người ta gánh hoa sen đến bán. Quyên mua hai bó hoa vừa trắng vừa hồng. Mua hạt sen để trưa nay nấu cháo chay”. “Ngày rằm, Quyên ăn chay, còn anh đang ở rừng Xuyên Mộc. Người ta làm thịt thú rừng chiêu đãi, giết hai con nhím, một con cheo”. “Ghê quá!”. “ừ, lúc nãy sắp bị giết, con cheo cứ ứa nước mắt. Nhìn thấy thương quá, không ăn được miếng nào. Thôi, Quyên hãy tới đây đi. ở đây có một dòng suối nước nóng, ngâm chân xuống thì uống bao nhiêu rượu cũng không say. Anh sẽ chỉ cho Quyên cây dầu lớn, có hoa rụng trắng xóa cả bãi cỏ”. Tôi cùng anh lang thang trên bãi hoa dầu trắng phau, rồi đi ra suối Bang mắc võng trên dòng nước. Tiếng suối chảy lúc trong vắt, lúc trầm đục đủ cung bậc. Trên đầu tôi, trời cao và xanh bao la.

“Quyên ơi, em đã đến đây thì cũng có thể bay lên trời với anh được”. Chợt tôi thấy mình vút lên trời xanh. Tôi thấy anh ở bên tôi. Chúng tôi đang bay lên, và đang lơ lửng trước vực thẳm.

° ° °
Đó là ngày anh không chịu dừng lại ở tưởng tượng để chỉ đòi ăn canh mít non và cá bống kho tiêu qua đường điện thoại. Anh nói với tôi huyền thoại về chín cánh cửa. “Ngày xưa có người lạc vào sơn động và kết duyên với chúa Tiên. Một hôm chúa Tiên đi chầu Trời, giao cho chàng một xâu chín chiếc chìa khóa và dặn chàng mở cửa nào tùy thích, chỉ trừ cánh cửa thứ chín. Trong tám ngày chàng lần lượt mở tám cửa, mỗi khung cửa dẫn vào một cảnh giới tuyệt vời như trên thiên đường… chỉ còn cánh cửa thứ chín, chàng trai tự nhủ, mình không mở ra. Nhưng…”.

Cánh cửa thứ chín. Cánh cửa biết mở ra là tai họa mà mọi người cuối cùng đều đã mở. “Quyên ơi, Quyên hiểu anh muốn nói gì không?”. “Em hiểu. Em thấy sợ”.

“Tại sao?”. Tôi không biết làm sao giải thích nỗi sợ hãi của mình. Dường như đã đến lúc tôi có thể nhận diện thứ tình cảm trong lòng mình: Đấy chính là tình yêu đang mỗi lúc một lớn lên, và tôi linh cảm cuộc đời tôi sẽ sụp đổ dưới sức nặng của tình yêu ấy.

Một ngày cuối hè, anh lại đi qua phố cổ. Anh muốn gặp tôi. Tôi ấp úng, cố gắng diễn tả cho anh biết rằng người ta thường khuyên đừng đùa với lửa. Đùa với lửa, sẽ bỏng tay, và tôi tự biết mình không chịu nổi xót xa.

Nhưng anh hứa không làm tôi bỏng. Không phải những hồi chuông điện thoại làm rối tâm tư tôi. Làm rối linh hồn tôi, chính là nỗi khát khao được nhìn thấy, dù trong một chút, cuộc đời bao la mà trước nay tôi mới chỉ nhìn trong tưởng tượng.

Chín giờ tối, đúng vào đêm hạ chí, tôi ra khỏi nhà, qua cánh cổng gỗ cũ xưa, rồi đi men theo bờ hồ trước mặt. Hoa sen cuối mùa lan tỏa mùi thơm trong ánh trăng. Anh đang chờ tôi bên kia hồ, dưới gốc cây xà cừ. Bóng đêm lẫn bóng trăng bao trùm thân thể tôi. Hai chân run run, tôi lúng túng, hoảng hốt, cảm thấy thất thố vì đã đến một nơi quá bất lợi cho mình. Nhưng ngay lúc ấy tôi cũng không kiềm chế được mong muốn lao sâu vào khám phá một thế giới – Anh, anh cũng là một thế giới.

Anh bước lại bên tôi, hay tôi đang chạy đến với anh, tôi không biết nữa. Rồi tôi cảm thấy tay anh, mắt anh, môi anh, tất cả rất giản dị, rõ nét và rất giống hình ảnh trong trí tưởng tượng của tôi. Anh rất ấm, và rất dịu dàng.

Đúng như lời hứa, anh đã không làm tôi bỏng.

Tôi không bỏng. Tôi cháy.

° ° °
Lúc tôi trở về nhà, cánh cổng nặng khép hờ rên rỉ dưới tay tôi. Hòa đã ngủ say, tờ báo rơi trên ngực. Suốt đêm tôi như đang nằm duỗi trong một đám sương mù, lâng lâng, êm ái. Cũng trong đêm ấy, ước mơ được rực cháy suốt quãng đời còn lại chợt như một ám ảnh điên rồ thiêu đốt tâm trí tôi.

Trời mờ sáng, tôi ra sân, đi lảo đảo như người mộng du. Vượt qua cánh cổng, vượt qua cây xà cừ, vượt qua con đường sương trắng, tôi như người điên đập cửa căn phòng lạ.

Người đàn ông của tôi hiện ra trước mặt.

Trong lúc đi trên đường, bên tai tôi cứ lùng bùng những điều định nói cùng anh. Tôi sẽ nói rằng tôi không thể tiếp tục sống trong bốn bức tường lạnh lẽo. Tôi sẽ nói muốn cùng anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi sẽ chịu bỏng, chịu cháy, để được đau đớn, được yêu thương. Tôi muốn chịu đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự tẻ lạnh.

Nhưng lúc này, dưới ánh sáng quá rõ của ban ngày, anh hiện ra rất xa lạ với hình ảnh anh trong bóng trăng. Một người đàn ông đến từ một cõi đời khác… Tôi thấy mình đứng trên hành lang, trước người đàn ông này một cách vô lý, ngớ ngẩn và trơ tráo. Kêu lên một tiếng, tôi đâm đầu chạy ra đường. Có tiếng xe đâu đó thắng gấp…

Không hiểu sao lúc đó tôi không biết sợ. Mãi đến lúc ngồi trên xích lô qua đường phố dài, cả người tôi mới bắt đầu run lên, cơn run rẩy không cưỡng được của người suýt chết.

Hòa đang cho chim ăn trước hiên nhà. “Em đi đâu sớm thế?”. Giọng Hòa bình thản như mọi câu nói vào mọi giờ, mọi ngày khác. Tôi gắng gượng thốt lên một lời nói dối qua loa rồi bước vào nhà.

“Sáng nay anh đi làm sớm, em cho anh ăn mì với hai quả trứng”. Hòa bảo, không ngoái lại. “Vâng, bánh mì với hai quả trứng”. Tôi vào bếp với đôi chân chưa hết run. Hòa không biết nấu ăn, cũng không hề có thói quen ăn tiệm. Anh không thể nào xoay xở được nếu không có tôi. “Ngày mai là ngày hiệp ky, nhớ chuẩn bị đồ lễ đưa sang từ đường”. “Vâng, em nhớ”. Tôi trả lời, những câu trả lời như tiếng vang không âm sắc.

Khi chiếc Chaly trắng xành xạch đi rồi, tôi để rơi mình xuống ghế. Cơn đau chợt quặn thắt, mồ hôi rịn ra ướt cả hai tay tôi.

Một hồi chuông reo.

“Quyên ơi, em nghe đây: một người tù hèn nhát thì sẽ mãi mãi là một người tù”.

Tôi không dám nghe. Tay tôi run rẩy tháo rời dây điện thoại. Anh đã nói đúng, nhưng rất có thể chính anh cũng có bốn bức tường, hai cánh cổng ở đâu đó, và dù đi khắp nơi trên thế gian anh cũng không ra khỏi những thành trì, như tôi…

Cả tuần sau, máy điện thoại tắt ngấm. Tôi hiểu thế nào là sự trống rỗng của lặng im. Căn phòng lạnh, yên lặng đè lên tim tôi như một khối nặng trịch vô hình. Sự yên lặng khắc khoải, đau nhói âm thầm trong lúc đi, đứng, nói cười, cố sống cuộc đời bình thường.

Vẫn biết chân trời là nơi không đến được, nhưng dù sao tôi cũng phải có một chân trời.

Đến ngày thứ tám, tôi nối lại đường dây. Nhưng chiếc máy không hoạt động nữa. Chồng tôi đã trả số thuê bao. “Anh thấy nó chẳng có lợi lộc gì mà nhiều khi lại thêm mất ngủ. Chưa bao giờ anh thấy khỏe như tuần qua, khi máy hư”. Tôi lặng lẽ nhìn chồng tôi với đôi mắt của người chết đuối. Cơn đau hành hạ tôi. Tôi âm thầm chịu, không rên rỉ.

Đêm ấy tôi nằm mơ thấy một con nai trúng tên, nằm khắc khoải chờ chết trong một xó rừng.

Sáng sớm hôm sau, trong lúc tập Buthayoga, hai tay tôi chợt rời thắt lưng, tự hướng về phía đầu, xoa mãi vào huyệt bách hội. Chợt như có dòng nước lũ xoáy mạnh làm vỡ cả con đập chắn ngang. Hoàn toàn không ngờ trước, tôi bỗng òa khóc, khóc tức tưởi, không sao cưỡng được. Những giọt lệ trào ra từ khóe mắt, những cơn rền rĩ thoát ra từ lồng ngực. Tôi khóc to, khóc thảm thiết, một thứ khóc vô thức kỳ lạ, giữa lúc tâm trí phiêu bồng như đang chìm giữa sương mù.

Cơn khóc dừng khi tôi chìm vào giấc ngủ mê. Khi tỉnh dậy, tôi biết Buthayoga lần đầu tiên đã chạm đến điều gì trong linh hồn tôi.

Chứng thống kinh của tôi đã dứt.

Những hồi chuông điện thoại đã tắt. Không còn mây trời, biển và rừng trong bốn bức tường xây kín. Không còn gì nữa, và tôi cũng không còn đợi.

Tôi cam tâm dừng mình lại trong hai cánh cổng: Cánh cửa thứ chín của mỗi đời người.

Tối hôm sau, trong bữa ăn, chồng tôi bảo:

– Sáng hôm qua mình tập cái môn dưỡng sinh quỷ quái gì mà cứ rền rĩ y như có ai chết không bằng.

Tôi lặng yên. Làm sao nói cho Hòa hiểu được, một thế giới vừa bị lấp vùi. Tôi đã tự chôn mình cùng với thế giới ấy, và giờ đây tôi đang khóc tôi.

(Trần Thùy Mai)

Thương nhớ Hoàng Lan

2009-09-1(17)

Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: “Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?” Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: “Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại”. Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: “Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúnh sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ?” Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: “Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H” Rồi bà cười ha hả: “Đi tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da”. Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vao đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm…

Cô ruột tôi giận lắm, bảo: “Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng.” Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói “Đừng”. Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?

Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. “Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.”

Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn…

Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: “Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?” Tôi chỉ lắc đầu…

Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am – am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: “Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác”. Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch: “Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh?” Thầy hỏi: “Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong.” Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.

Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phảt dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: “Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng”. Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: “Này, đừng nghịch”. Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. “Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan”. Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: “Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy”. Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: “Mấy con Thị Màu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử?” Tôi cự: “Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ”.

Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước giò. Lan phụng phịu: “Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có”. Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ. “Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi”.

Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: “Không can gì”. “Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?” Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. “Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó”. Tôi động lòng, hỏi: “Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong”. Thầy cười: “Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín rầng mây”. Tôi vái thầy mà thưa: “Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin tôi không giữ vườn lan nữa.”

Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. “Anh không thích phong lan nữa sao?”. “Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan”. Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất. Lan bảo: “Thích ghê, em chưa thấy bao giờ”. Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương…

Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. “Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường”.Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: “Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng”. Tôi hãi hồn, vội nói: “Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây”. Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: “Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa”.

Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt…

Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.

“Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch rhằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà”. “Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó”. “Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức”. Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: “Khó tin”. “Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra – bạn tôi nói, vẻ ông cụ non – Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn”.

Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: “Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi”. Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịnh vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: “Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu.”… Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: “Đồ lừa đảo. Từ nay chứa cái thói dỗ gái đi”. Quay sang Lan, tôi nạt: “Đi về!” Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi…

Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: “Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?” Tôi cau mặt: “Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?” “Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến”. “Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn”. Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi. “Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?” Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa… “Em có thích nghe chuyện cổ tích không?” “Thích”. Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: “Sao có người làm được như thế?” Tôi gật đầu: “Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời: “Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua”. Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng. “Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?” Tôi bảo: “Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con”. Lan cười… Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. “Thôi, về đi em”. Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật…

Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: “Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu”. “Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên”. Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: “Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?”

Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.

“Con ma nữ” đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: “Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con”. Tôi cuống quýt: “Bác bảo con làm sao được?” “Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra”. Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: “Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng”. Tôi thở dài: “Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thuỷ Sám”. Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi…

Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: “Sao con bỏ học?” Tôi nói: “Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng”. Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: “Bạch thầy”. Thầy tôi bảo: “Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.” Tôi nói: “Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An”. Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: “Tâm không an, có cầu cũng vô ích”. Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. “Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?” Thầy nhìn vào mắt tôi: “Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.” Tôi lắc đầu: “Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi”.

Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã úa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.

Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: “Chú Ninh!”

Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. “Bác lên chùa cầu cho em đi bình an…” Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.

Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan:

Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan…

Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi…

Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng. “Cứ khóc đi con” – Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt – “Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ”. Tôi nức nở: “Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không?”

Thầy bảo: “Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?” Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.

Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.

Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.

(Trần Thùy Mai)

Nơi gió phải đến

175930_a6

Năm nay mùa đông lạnh hơn hẳn mọi năm. Gió cao nguyên cứ tràn qua, tràn qua từng đợt, những bông quỳ chấp chới vàng như sóng. Quỳnh bảo tôi: Gió ở đây một đi không trở lại, khác ở Huế. Gió từ sông Hương thổi lên là gió rất đa mang, thổi tà áo bay dùng dằng, như trong câu hát ngày xưa “Gió bay từ muôn phía…”.

Tôi bảo Quỳnh: “Em không nhắc Huế một ngày, chắc là không ngủ yên một ngày. Huế của em mà, chẳng nơi nào có được”. Quỳnh chống chế: “Còn anh, ngày nào cũng phải châm chọc người ta vài câu thì ăn cơm mới ngon phải không?”
Nhà Quỳnh ở đầu thung lũng, khuất sau rặng hoa vàng. Tôi dừng xe đứng ngần ngừ, muốn tiến vào nhưng còn ngần ngại. Nàng mở cánh cổng gỗ thông, bảo tôi:
– Vào đây một chút đã anh.

Tôi dắt xe qua sân. Căn nhà gỗ nhỏ nhắn và sạch sẽ. Bộ bàn ghế bằng mây với bình hoa gốm cắm mấy chùm hoa sao lấm tấm tím trắng. Cách đây hai năm, khi Quỳnh vừa chuyển công tác lên đây, chính tôi đem bình hoa gốm này đến cho nàng. Căn nhà lúc đó trơ trọi, chưa có gì. Những gói hành lý của nàng nằm bệt trên sàn. Mấy cái áo mắc trên lưng ghế. Một thùng giấy lớn vừa khui xong, miệng mở rộng, bên trong một lũ thú nhồi bông bồng bế quấn quýt lấy nhau. Tôi tặc lưỡi:
– Tuổi em mà còn chơi những thứ này à? Cả một thùng cồng kềnh, chở đi cũng hết hơi.

Quỳnh cầm lên một con chó bông trắng, tần ngần:
– Mỗi năm vào sinh nhật em, Minh lại tặng một con thú bông. Em đem đi đủ hết, không sót con nào – Nói rồi nàng lôi ra từng con một đặt lên cái giường còn trống trơn. Tôi đếm: có tất cả mười con, đủ màu, đủ kiểu. Vậy là họ quen nhau đã mười năm… Vì sao Quỳnh lên đây? Bỏ xứ mà đi, chắc là có nỗi buồn. Chẳng tiện hỏi, tôi gần xa:
– Người ta bảo những người yêu thú bông thường là những người nhân hậu và mềm mỏng.
– Đúng rồi. Minh hiền lắm, năm mười tám tuổi đi học ngành thú y chỉ vì thích chơi với chó mèo.
“Một gã chán phèo.” Tôi thầm nghĩ. Mặt Quỳnh đầy vẻ trìu mến. Hình như nỗi nhớ đang hành hạ người ra đi, chỉ khi nhắc đến Minh, đến Huế nàng mới tươi lên một chút. Tôi thôi không hỏi nữa, chỉ lặng lẽ đóng đinh, kê đồ đạc giúp nàng. Thời gian là thuốc thần diệu nhất, trước sau rồi nàng cũng nguôi ngoai đi thôi.

Bây giờ, Quỳnh không nhắc đến Minh nữa. Nàng cũng phải nể nang tôi một chút chứ, không có tôi ai chịu khó đưa nàng về sau những đêm sinh hoạt văn nghệ khuya khuya như đêm này… Nhà Quỳnh yên tĩnh, xinh xắn, nhưng hơi lạnh. “Quỳnh ở một mình vầy không sợ ma sao?”. Quỳnh đặt tách trà trước mặt tôi: “Ma có quấy quả chi mình mô. Chỉ sợ người. Nói thiệt với anh, lúc nãy em cố tình mời anh vô nhà đó. Để cho mấy gã tà quanh xóm thấy có bóng đàn ông, đỡ quấy nhiễu”.
À, thì ra vậy. Thì ra nàng chỉ cần tôi có thế thôi: một thứ bù nhìn để dọa chim trời. Tôi hơi phật lòng. Nhưng nghĩ cũng tội, đàn bà con gái ở một mình khó mà yên thân. Tôi đùa: “Anh phải làm vệ sĩ thường xuyên túc trực, chứ ngồi đây năm mười phút thì ăn thua gì.”

Quỳnh nghe tôi bóng gió, chỉ thở dài. Lúc tiễn tôi ra cổng, nàng nói:
-Quỳnh cũng nghĩ nhiều lắm, nhưng khó quá anh à!
Tôi quay nhìn vào nhà. Mười con thú bông vẫn còn đó, trên chiếc giá gỗ dài ở lưng chừng vách.
Về sau có lần tôi đường đột hỏi Quỳnh vì sao nàng lại lên sống ở đây, bỏ Minh ở lại. Quỳnh nhăn mặt:
– Anh có để cho em yên không?
Tôi không chịu thôi. Tôi có lý do để mà đường đột. Quỳnh trả lời, miễn cưỡng:
– Đâu phải chỉ có hai đứa sống trên đời. Dư luận. Gia đình. Tương lai, nghề nghiệp… Em đã tính đương đầu, nhưng rồi đuối sức.

Nàng càng nói tôi càng rối mù, chẳng hiểu gì. Chỉ lờ mờ cảm thấy một bi kịch. Chẳng ai muốn nhắc những ngày bi thảm của mình, cũng như tôi, nếu ai hỏi tôi vì sao Ngà bỏ đi, vì sao hơn năm năm tôi vẫn phải ăn ở quán Bà Rơi cơm bụi, chắc chắn tôi cũng gắt lên: “Để cho tôi yên!”
Năm năm rồi, tôi chưa thấy mình gắn bó với ai, cũng chẳng thấy mình cần thiết cho ai.
Nửa đêm, tôi giật mình tỉnh dậy. Chuông điện thoại réo liên hồi. Giọng Quỳnh như hụt hơi: “Anh đến chỗ Quỳnh gấp”. Tôi nhìn đồng hồ, đã hai giờ sáng. Đường khuya lạnh buốt không người, sương mù trắng cả lối đi, tôi suýt không nhìn ra cái giậu hoa vàng trước ngõ. Cánh cổng gỗ thông đã mở sẵn, tôi chỉ hẩy nhẹ một cái là tung ra. Tôi hoang mang dắt xe vào cổng, chợt nghe tiếng Quỳnh thì thào đâu đó như rất gần:
– Anh Tùng, cẩn thận…

Tôi đang còn định vị xem nàng đang ở đâu trong vườn thì chợt mùi rượu theo gió tạt vào mặt. Tôi bỏ xe, thận trọng vòng ra cửa sau. Hai bóng đen đang châu đầu vào cánh cửa khóa kín. Tôi lùi lại thủ thế, nhưng rồi bình tĩnh lại khi nhận ra đó chỉ là hai thằng say rượu túy lúy, chân cẳng đã quàng xiên, chỉ còn đủ sức để dọa đàn bà con gái.
Tôi tống cổ hai thằng say ra khỏi cổng, đóng chốt lại, nhìn quanh xem Quỳnh ở đâu. Vừa lúc nãy tôi nghe tiếng nàng gần lắm kia mà. Chợt có tiếng sụt sịt khóc từ cái lỗ gắn thông gió vang ra. Hóa ra Quỳnh ở trong nhà, nấp dưới cái thông gió. Gió quạt tiếng nàng ra như ở bên tai tôi. Tôi đập cửa:
– Đừng sợ, anh đuổi tụi nó đi hết rồi.

Cửa mở, Quỳnh hiện ra với đôi mắt sưng húp. Bao giờ cũng thế, như con chim sau cơn bão. Bất giác tôi ôm lấy nàng. Lâu lắm rồi tôi mới có cảm giác mình cần thiết cho một ai đó. Tôi đỡ Quỳnh ngồi xuống chiếc ghế mây rồi xuống bếp tìm chút gì cho nàng uống. Căn bếp tinh tươm, gọn ghẽ, làm tôi nhớ lại căn phòng nhếch nhác của tôi. Trong
đầu tôi bỗng một tiếng nói vang lên như búa bổ: “Thật ngu ngốc, thật ngu ngốc!”.
Nàng hớp cốc trà nóng mà tôi vừa pha, hai bàn tay nắm chặt cái cốc sành, vẫn còn run vì xúc động. “Thật ngu ngốc.” Tôi bất giác thốt thành lời. “Ai ngốc hở anh?” “Cả anh, cả em”. Quỳnh ngơ ngác rồi chợt hiểu ra. Trong mắt nàng thoáng hiện cái vẻ như một con thú nhỏ đang chùn lại, bỡ ngỡ và xót xa, vẻ nhìn đó làm mềm lòng tôi, khiến tôi nói ra hết những lời lâu nay ngại nói…

Cái tin hai đứa tôi đính hôn làm cả Hội bất ngờ. Lâu nay, sau nhiều công sức gán ghép vô hiệu, ai cũng nghĩ Quỳnh và tôi thuộc vào týp không còn khả năng yêu. Tôi đã trải qua một lần, đủ để không kỳ vọng quá nhiều vào hôn nhân. Với tôi bây giờ, hôn nhân nghĩa là chấm dứt những bữa cơm bụi và nhiều buổi tối câm lặng không có ai để nói nửa lời. Chỉ đơn giản có thế, tôi không đòi hỏi nhiều ở Quỳnh. Một phụ nữ dễ thương, tốt bụng, nấu ăn ngon, thế là đủ lắm rồi, ngoài sức tôi mơ ước.

Tuy đã định làm đám cưới rất giản đơn nhưng cũng không thể bỏ qua lệ tục, tôi cùng ông chú về Huế gặp gia đình Quỳnh. Âën tượng đập vào tâm trí tôi trong lần gặp gỡ đầu tiên là ông anh cả của nàng, một người đàn ông vạm vỡ, lông mày dựng ngược với những sợi lông sắc và cứng. Quỳnh đã nói trước với tôi: “Ông anh em hơi khó. Có gì anh đừng chấp nghe”. Tôi lo lắng: “Khó đến cỡ nào?” Quỳnh trấn an: “Là hơi dữ tính ấy mà, cái gì cũng nhất nhất phải theo ý anh ấy. Hồi em nhỏ, trái ý một chút là bị đánh thẳng tay. Vậy nhưng anh ấy thương em lắm”. Đã chuẩn bị tinh thần đối phó nên khi giáp mặt, tôi bị bất ngờ đến hẫng đi. Tiếng cười ha ha và vẻ vồ vập thái quá của ông bỗng gây ra một tác dụng ngược, thay vì mừng vui, tôi thấy lòng mình chùn lại. Tôi là người đàn ông đã có vợ một lần, trong khi Quỳnh chưa hề kết hôn, theo thói thường thì nhà gái đâu dễ đón nhận cuộc hôn nhân ấy, vậy mà….
– Cậu tính cưới ở đâu? Ở trên đó à, ừ được, tôi cho phép, khỏi bày biện ở đây làm gì.

Nhà gái dễ dàng như thế thì càng thuận lợi cho tôi, nhưng không hiểu sao tôi không mừng mà nản. Tôi thấy rõ ý định của ông anh: chỉ mong cô em gái sớm lấy chồng cho xong.
Nói chung đàn ông, dù là týp đàn ông ít tham vọng như tôi, không ai ưa những chiến thắng dễ dàng. Bỗng nhiên tôi cụt hứng. Những xúc cảm lãng mạn vừa khơi gợi trong tôi dường như xẹp xuống, thay vào đó là sự e dè, ngần ngại. Mặc dù Quỳnh thì vẫn là Quỳnh như tôi đã biết, chẳng có gì khác. Mùa hoa quỳ đã qua, khi tôi trở lại căn nhà nhỏ trên cao nguyên thì nàng đang nhặt những lá héo ra khỏi lùm cây rậm rạp. Bỗng dưng tôi thấy tiếc. Tiếc cái gì không rõ. Có lẽ là một chút men say vừa dấy lên đã tan. Hai chúng tôi ngồi đối diện qua chiếc bàn song mây, dáng vẻ Quỳnh hiền hậu và nghiêm túc, có lẽ tôi cũng nghiêm túc không kém. Buồn cười thật, thế này thì chẳng có vẻ gì là một cặp uyên ương sắp kết hôn. Tuy vậy, tôi cũng lấy quyền một vị hôn phu để vòi vĩnh tí chút:
– Trưa nay anh ở lại ăn cơm nhé!

Quỳnh cho tôi ăn món bún bò Huế, không quên thêm vào một tí vị ngọt, bớt đi một tí vị cay cho hợp với khẩu vị miền của tôi. Có tiếng chim bồ câu gù gù ở mé hiên nhà. Cảm giác tôi bỗng dịu lại, êm đềm. Tôi tự nhủ mình còn đòi gì nữa, một người vợ hiền hậu, một ngôi nhà yên ấm, một cuộc sống an lành được những người chung quanh vun vén. Cái gọi là tình yêu tuyệt đối phải chăng cũng chỉ là sản phẩm tưởng tượng của các nhà tiểu thuyết? Tôi đã qua cái tuổi viễn vông rồi, giờ đây với tôi hạnh phúc có nghĩa giản dị là một cuộc sống chung bình yên.

Ăn xong món tráng miệng, tôi hút thuốc, đọc báo rồi tháo giày, tất định đi nghỉ. Quỳnh dọn hết chén bát xuống bếp rồi trở lên, cầm chiếc khăn bông lớn:
– Để Quỳnh lau yên xe cho anh rồi hãy về, xe để ngoài hiên ướt cả.
Vậy là ý nàng không muốn tôi ở lại. Tôi lại mang tất, xỏ giày. Ngước nhìn lên, lưng chừng vách, mười con thú bông đang nhìn xuống. Hai mươi con mắt nhìn tôi. Con thỏ hồng thơ ngây. Con nai vàng khờ khạo. Con sóc nâu trân trối nhìn, như muốn bảo: Đây là chỗ của tôi, chỗ của tôi.
Quỳnh trở vào, bắt gặp tôi đang nhìn trừng trừng vào quá khứ của nàng. Lầm lì, tôi bảo:
– Mình sắp cưới nhau rồi mà.
Quỳnh điềm đạm trả lời:
– Em biết rồi. Làm sao đi vào chặng đường mới với hành trang cũ được.
– Vậy thì… ?!
– Nhưng vứt đi thì không đành. Thật đấy. Anh trách, em cũng chẳng biết làm sao.
“Tùy em thôi.” Tôi nói, giận dỗi đứng dậy. Quỳnh chợt bật cười, chạy theo níu tôi lại, vẻ như muốn dàn hòa:
– Anh hiểu lầm rồi. Em không vứt nhưng cũng đâu có giữ lại. Khi nào cưới, có người lên đây, em sẽ gửi hết về dưới đó.

Tôi nghĩ thầm trong bụng: “Gì mà nhiêu khê thế, đem ra ngoài vực ném cả xuống là xong”. Nhưng tôi không đủ thô bạo để nói được như thế, cũng không đủ bồng bột nồng nàn để liều mạng tự tay ném tan tác cái sở thú nhỏ xinh xinh kia. Đành phải nhượng bộ nàng thôi, bởi vì nàng cũng đang nhượng bộ tôi: Lẽ nào nàng không sợ cô độc, sợ những thằng say xỉn liên tục quấy rầy, sợ cái danh xưng “bà cô” đang chờ gắn vào số phận nàng?
Sau nhiều lần chuyển, áo xống và đồ dùng của tôi đã về hết nhà Quỳnh. Ở trụ sở Hội, mỗi đêm nằm quấn mình trong chăn, tôi bỗng cảm thấy mình như con nhộng nằm trong chiếc kén rỗng, đã sẵn sàng phá vỡ kén để chui ra.

Còn những lúc đến nhà Quỳnh tôi lại có cảm giác như mình là kẻ lấn chiếm. Cái giá áo, cái tủ sách, giàn vi tính của tôi cứ từng món, từng món một tiếp theo nhau chen vào những góc trống trong nhà Quỳnh. Một buổi trưa tôi đến ăn cơm, thấy lũ thú bông đủ màu của nàng đã rời tấm giá gỗ ở lưng chừng vách. Thay vào chỗ của chúng là những cuốn sách của tôi. Khỏi phải nói, chẳng có hình ảnh nào làm tôi hài lòng hơn nữa. Cuộc lấn chiếm của tôi đã hoàn tất. Lũ thú bông lại bồng bế nhau vào nằm trong một cái thùng giấy to giữa sàn – Chính là cái thùng ngày nào đã đưa chúng đến đây. Tôi đến gần. Miệng thùng chật chội chưa đóng lại, một con gấu trắng như tuyết thò đầu ra nhìn tôi, đôi mắt buồn thiu. Gài vào cổ nó là con lừa khù khờ màu xanh dương, cái mõm màu tím nhe ra như đe dọa, như tự vệ… Tôi bảo: “Để anh giúp em một tay”. Tôi đè mạnh cả bầy thú xuống để đậy miệng thùng. Quỳnh nhăn nhó, trông mắt nàng tôi đoán chừng nàng đang nghe cả bầy thú bông đang kêu thét lên, đau đớn. Nàng nắm lấy tay tôi:
– Thôi anh, cứ để đó cho Quỳnh. Chiều ni em gái Quỳnh lên đây rồi. Nếu túi xách lớn thì cũng không cần phải đóng thùng làm chi.
Có lẽ nàng hy vọng rằng nằm trong một cái túi mềm, tụi thú bông sẽ dễ chịu hơn. Thôi, mặc kệ nàng, tôi bỏ đi xuống bếp, lấy búa, đinh ra đóng thêm những cái đinh trên vách, treo vào đấy những bức tranh mới. Ít ra, cảnh tượng mới sẽ nhắc Quỳnh nhớ ra, mình đã quyết tâm bước vào một chặng đời khác.

Em gái Quỳnh không giống chị cho lắm, có thể nói là rất khác. Người cao, gầy, dài ngoằng, hơi lộc ngộc. Chỉ có đôi mắt là giống Quỳnh, to và sâu long lanh. Cô ta mang lên thêm hai con thú bông nữa. Một con khỉ và một con khủng long, vẻ mặt quằn quại. Tôi nhớ ra, Quỳnh lên đây đã hai năm. Phải chăng hai con thú này đến từ người đàn ông tên Minh, vẫn tiếp tục mua cho nàng vào ngày sinh nhật, dù nàng không về nữa? Phải chăng em gái nàng là sứ giả của người đàn ông giấu mặt? Ruột gan tôi bỗng cồn cào vì những dự cảm chẳng lành… Trong bữa cơm tôi gượng gạo hỏi thăm và làm thân với cô em vợ nhưng chỉ nghe những câu trả lời nhát gừng. Không hiểu hai người đã nói gì với nhau trước khi tôi đến, chỉ biết giờ này mắt cô em lầm lì đầy bóng tối, còn mắt Quỳnh thì đỏ hoe. Chợt nhớ đến ông anh vợ “quyền huynh thế phụ” đã gặp ở Huế, tôi thầm nghĩ: “Gia đình Quỳnh toàn những người kỳ lạ”.

Chiều ấy ở văn phòng Hội, tôi ngồi thừ ra, mân mê mấy gốc râu.
Phi Phi, cô kế toán của Hội trêu:
– Còn hai hôm nữa cưới vợ rồi, mừng quá hay sao mà ngẩn cả người ra vậy, ông anh?
Tôi thở dài:
– Không biết nữa, sao mình thấy lo lo.
– Lo cái gì, chị Quỳnh hiền và dễ thương như vậy, anh vớ bở lắm rồi.
– Ừ, nhưng mình đã biết gì nhiều về cô ấy đâu.
– Kệ đi anh, có nhắm mắt nhắm mũi một chút mới yêu nhau được. Tỉnh táo quá thì ai mà dám yêu nhau, lấy nhau.

Tôi lại thấy vững tâm. Dù sao đi nữa, giấy đăng ký kết hôn đã xong. Đạn đã lên nòng rồi, gạo cũng sắp thành cơm. Bằng giá nào tôi cũng không muốn ăn cơm bụi bà Rơi thêm một ngày nào nữa.
Ông anh vợ xuống xe, trong đám đông người ông không lẫn vào đâu được bởi ông nổi bật lên với khuôn mặt vuông vức thô tháp và đôi lông mày chổi sể. Thấy tôi ông vẫy tay, mặt hể hả lạ lùng. Mà cũng phải, đi dự đám cưới em gái, ai mà không vui. “Chuẩn bị xong cả chưa?”. Hỏi xong, như thói quen ông cười ha ha một lúc, tràng cười không có ý nghĩa gì, như một loại phản xạ. “Xong cả rồi anh, chỉ chờ đến giờ mở sâm banh nữa thôi”.

Tôi đưa ông về nhà Quỳnh. Thì ra hai năm rồi từ lúc Quỳnh lên đây ông chưa hề có dịp lên thăm em gái. Đẩy cánh cổng gỗ thông vừa được sơn quét lại, ông liếc nhìn một vòng ngôi vườn xanh um gật gù:
– Được, được lắm… Bây giờ chắc nó mới biết ơn tôi hồi đó đã một hai bắt nó đi xa.
Nhà khóa cửa. Lạ thật, hai chị em đi đâu? Quỳnh biết thừa là tôi sẽ đưa ông anh về giờ này mà. Mâm cơm đã chuẩn bị sẵn, nồi xúp còn nóng trên bệ bếp, một chai whistky nằm ngay ngắn trên bàn, thứ dành riêng cho hai người đàn ông chúng tôi… Trong khi ông anh tắm rửa và thay áo, tôi ngồi một mình, nhìn quanh, chợt thấy căn phòng hình như là lạ…
“Quái, đã dặn trước rồi, sao hai chị em lại còn đi đâu?”
– Hai chị em? Ông anh Quỳnh ngạc nhiên.
– Thì cô Út…
“Tụi tôi có cô em nào nữa đâu? Hay là… Thôi rồi, hay là con Xuân Minh?”.

Tôi ngẩn người. Ông anh lật trong sổ tay, lôi ra một tấm hình chụp nhiều người, trong đó có một cô gái cao, gầy, dài ngoằng, với đôi mắt to đen. Trên khuôn mặt cô gái, có ai dùng bút bi đỏ gạch một dấu chéo thật to, như đánh dấu tội phạm.
– Trời ơi, con Minh! Hai đứa nó theo nhau từ thời còn đi học. Buộc lòng tôi phải tống con Quỳnh lên đây để cách ly. Ai ngờ nó lại tìm lên tận đây.
Tôi ngồi lặng. Nhìn kỹ mâm cơm, đúng là Quỳnh chỉ đặt hai cái bát, hai đôi đũa. Không có Minh và Quỳnh. Họ đã quyết định đi, đi đâu? Tôi không biết. Lũ thú bông cũng đi cùng với họ, mười hai con thú, mười hai năm, mười hai ngày sinh nhật. Một lá thư nằm lấp ló dưới mâm cơm: “Anh Tùng. Quỳnh xin lỗi anh. Quỳnh cũng mong sống bình yên, nhưng rồi không thể…”
“Vô lý! Vô lý đến thế là cùng!” Ông anh vợ hụt của tôi gầm gừ, tức giận muốn phát điên. “Đồ khốn nạn! Tùng à, cậu đừng buồn, thế nào tôi cũng kiếm cho ra chúng nó, tôi vặn cổ con kia, đem vợ cậu về cho cậu. Yên tâm đi!”.

Tôi ngồi thừ trên ghế mây nhìn qua cửa sổ. Ông anh Quỳnh lắc lắc người tôi: “Thế bây giờ… Cậu tính sao?”. Người đàn ông bặm trợn, hung hăng ấy bỗng rụt rè, thiểu não, hình như ông xem tôi là cái phao cứu sinh cho gia đình ông, và rụng rời khi thấy nó sắp vuột mất.
Tôi lắc đầu. Mơ hồ, tôi nghĩ đến Quỳnh, đến Minh, đến những con thú bông với đôi mắt khắc khoải câm lặng. Có tiếng gọi nào trong ánh mắt ấy, tôi không rõ, một tiếng gọi tha thiết và nung nấu từ trong bản thể đã khiến họ chấp nhận bước lên con đường đầy bất an và đau đớn. Và tôi, dù không hiểu hết điều bí ẩn, cũng chẳng bao giờ đủ nhẫn tâm làm họ đau đớn thêm.

Thôi, để Quỳnh đi. Nàng cần một không gian rộng hơn để sắp đặt thứ hạnh phúc ngoại khổ của nàng. Tiến đến bên cửa sổ, tôi nhìn xuống con dốc xa, chìm trong sương muối lạnh giá. Gió cao nguyên cứ tràn qua, một đi không trở lại. 

Gió về nơi gió phải đến. Trước mắt tôi, những rặng quỳ không hoa cứ mãi oằn mình vươn về phía lũng sâu.

Trần Thùy Mai

 

Post Navigation